28/8/2016
Cao nguyên phố núi cao, phố núi mù sương |
- GS Thái Công Tụng - |
Cao nguyên phố núi cao phố núi mù sương
GS Thái Công Tụng
Một loạt chương trình đồng bộ khác cũng cần thiết như giáo dục cơ sở, cải thiện y tế, nước uống, khắc phục tình trạng người dân thiếu đất sản xuất, vốn vay để sản xuất-chế biến-xuất cảng, đó là chưa nóiđến việc tạo cho các tộc người bản địa một môi trường bình đẳng với người Kinh bằng cách giúp con em họ có cơ hội tham gia trong mọi ngành công vụ như trong y tế, giáo viên, cảnh sát, quân đội.. tóm lại tăng cường năng lực cho các dân tộc bản địa.
Abstracts
This paper which aims at providing an assessment of the Central Highlands of Viet Nam is structured into 10 sections.
Following the introduction on geographical setting in section 1, section 2 describes the main ecosystems which are natural units, relatively uniform in terms of geomorphology, climate and soils. Section 3 deals with the climatic conditions of the region. In section 4, water resources with main river systems are appraised. In section 5, soils resources, with emphasis on soil taxonomy and soil genesis are discussed. In section 6, ethnic minorities of the Central Highlands are presented. Agricultural systems with main crops like coffee, tea, mulberry, rubber, pepper are assessed in section 7. Demography trends are presented in section 8. Section 9 provides many development issues such as food security, soil erosion and soil fertility, energy, infrastructure development, education problems of ethnic minorities, biodiversity conservation, reforestation, land tenure, agricultural credit, off-farm income. Finally, the concluding remarks are presented in section 10 .
1. Tổng quan
Ngoài các đồng bằng và các châu thổ (sông Hồng, sông Cửu Long) không cao hơn mực nước biển bao nhiêu, Việt Nam còn có những cao nguyên nằm phía tây các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận. Những cao nguyên như vậy, thường được gọi là Cao Nguyên Trung Phần, còn gọi là Tây Nguyên (dưới đây sẽ viết tắt là TN) có rất nhiều đặc trưng nếu so sánh với các đồng bằng miền Trung, về nhiều mặt, từ khí hậu, đất đai, chủng tộc, đến sử dụng đất đai.
Trước hết, TN gồm các tỉnh sau: Kontum, Giarai (Pleiku), Dak Lac, Dak Nong và Lâm Đồng mà sau đây ta hãy tìm hiểu thêm về diện tích và dân số:
Tỉnh Diện tích (km2) Dân số (1996)
Kontum 11 560 260 000
Gia Lai (Pleiku) 16 060 824 000
DakLac(BanMeThuot) 13 062 1 667 000
Dak Nong 6 514 363 000
Lâm Đồng (Dalat) 9 953 722 322
Tỉnh Dak Lac sau 1975, gồm cả hai tỉnh Dak Lac (thị xã Ban Me Thuot) và Quảng Đức (thị xã Gia Nghĩa) họp lại, nhưng năm 2003 lại tách ra làm 2 như trước 1975. Tỉnh Quảng Đứcđổi tên là Dak Nong.
Tỉnh Gia Lai sau 1975, gồm cả ba tỉnh Kontum, Pleiku và Phú Bổn (thị xã Hậu Bổn tức Cheo Reo cũ)họp lại .
Tỉnh Lâm Đồng, sau 1975, gồm hai tỉnh Tuyên Đức (thị xã Dalat) và Lâm Đồng cũ (thị xã Bảo Lộc hoặc Blao). Tuy nhiên, cũng có thể trong tương lai, các tỉnh này lại được phân chia như trước 1975. Bằng chứng là sau 1975, nhiều tỉnh được gọp lại: Bình TrịThiên, Nghĩa Bình, Phú Khánh, Bắc Thái nhưng nay trở lại như trước năm 1975: Quảng Trị, Quảng Bình, Thừa Thiên (thay vì Bình Trị Thiên), Quảng Ngãi, BìnhĐịnh (thay vì Nghĩa Bình), Phú Yên và Khánh Hoà (thay vì Phú Khánh) v.v...
Diện tích của các tỉnh trên là 57 149 km2, tức 5.714.900 ha. Nhưng nếu kể cả các miền cao của các tỉnh miền Trung từ Quảng Trị vào đến Bình Thuận thì diện tích Tây Nguyên cao hơn nhiều. Vì TN có cao độ biến thiên từ 400 mét như ở Ban Mê Thuột đến 1500 mét như ở Dalat nên khí hậu cũng có nhiều biến thiên và đất đai cũng vậy.
TN, ngoài các cao nguyên, còn có những thung lũng rộng hẹp khác nhau. Những thung lũng lớn, bao quanh bởi các rặng núi cao thì phải kể thung lũng Sông Ba ở Cheo Reo (Phú Bổn củ), thung lũng Lạc Thiện ở Đông Nam thị xã Ban Me Thuot, thung lũng sông Sesan và các phụ lưu của sông này như Dak Poko và Dak Bla ở Kontum.
2. Các hệ sinh thái chính.
Tây Nguyên bao gồm cả các vùng đất cao tạo ra những cao nguyên/ bình nguyên lẫn vùng đất thấp của những đồng bằng hay thung lũng .
2.1 vùng đất cao.
Trong vùng đất cao, có thể phân biệt những sinh hệ sau:
2.1.1 giãy núi Trường Sơn
Từ miền núi cao phía bắc Kontum, phía sau đồng bằng Quảng Nam, giải Trường Sơn chạy dài từ Bắc xuống Nam, ngăn cách vùng TN với đồng bằng duyên hải Trung Việt. Giải núi này rất dốc về phía Đông vì gần biển còn phía Tây nó thoai thoải để tạo thành nhiều cao nguyên như cao nguyên Pleiku, cao nguyên Dak Lac, cao nguyên LangBian, cao nguyên Blao-Di Linh.. Có nhiều chỗ giãy núi này đâm ra tận biển, tạo ra những mũi như mũi Varella, mũi Né .
Giải núi này rất đa dạng về nhiều mặt:
-địa chất, vì có nhiều loại đá rất cổ, trước cả đại địa chất thứ nhất, tạo thành nền đá gốc mà các nhà địa chất học thường gọi là 'khối Kontum';
-thảo mộc vì có nhiều loại thực vật cảnh: rừng dày, rừng thưa, thảo nguyên v.v.
.-khí hậu: giải núi này là bức tường phân biệt khí hậu giữa Đông Trường Sơn và Tây Trường Sơn : phía đông, tại các đồng bằng duyên hải, mùa mưa trễ hơn, từ tháng 10-11 trong khi phía tây, nghĩa là phía cao nguyên, mùa mưa bắt đầu từ tháng 5. Nói khác đi, bên này là mùa nắng thì bên kia là mùa mưa.
2.1.2 vùng núi Ngọc Lĩnh ở thượng Kontum.
Giữa bắc Kontum và các đồng bằng Nam-Ngãi, là giãy núi Ngọc Linh, với đỉnh cao nhất 2 598m, cấu tạo bởi đá granit cùng các đá gơnai, đá phiến mica, riolit. Thấp hơn đỉnh Ngoc Linh là các đỉnh khác như Ngoc Pan 2 251m, Ngoc Niay cao 2 259m, nằm giáp ranh hai huyện Dak Gley và Dak To, Ngoc Krinh 2 025m nằm phía TB huyện Kon Plong, tỉnh Kontum; từ đỉnh giải Ngoc Lĩnh, có thể nhìn thấy tứ phía: đồng bằng Quảng Ngãi-Quảng Nam phía đông, xứ Lào phía tây. Sườn núi dốc và sông suối có thung lũng hẹp, dòng nước chảy mạnh và cũng từ sườn Đông rặng núi này phát xuất nhiều dòng sông chảy xuống các đồng bằng Nam, Ngãi. Rừng núi ở đây có nhiều loại gỗ quý và nhiều thú hiếm.
2.1.3 cao nguyên Kon Plong
Cao nguyên này có cao độ 1 100-1 300 mét có bề mặt bị chia cắt mạnh tạo nên những quả đồi, và nằm phía đông Kontum, giữa Kontum với Quảng Ngãi .
2.1.4 cao nguyên Kontum (550m) kéo dài từ vùng Tân Cảnh, Diên Bình, Võ Định đến thị xã Kontum. Kontum theo tiếng dân tộc bản địa Ba Na có nghĩa là làng hồ, do xưa kia có rất nhiều hồ nước (kon= làng; tum=hồ, ao) xung quanh .. Có sông Poko giới hạn phía Tây chảy từ thượng lưu quận DakTo chảy xuống.
Các địa danh nhưTân Cảnh, Kontum là nơi xảy ra nhiều trận kịch chiến giữa quân đội Việt Nam Cọng Hoà với quân Bắc Việt vào tết Mậu Thân (1968) và nhất là mùa hè đỏ lửa (1972). Một trong những căn cứ đó có tên đồi Charlie nằm phía Bắc thị xã Kontumđã được bất hủ hoá qua bài hát Người ở lại Charlie:
Anh! Anh! Hỡi anh ở lại Charlie
Anh! Anh! Hỡi anh giã từ vũ khí
Vâng, chính Anh là ngôi sao mới, một lần này chợt sáng trưng, là cánh dù đan bằng tiếc thương vô cùng
2.1.5 vùng đồi Sa Thầy với đất feralit đỏvàng trên mácma axit (granit, rhyolite) ở phía T ây sông Poko, có nhiều đập thuỷ điện (Sesan, Ya Ly) trên con sông Sesan .Tại đây có khu bảo tồn thiên nhiên Chư Môm Rây là một vùng rừng nguyên sinh giáp biên giới Lào; ở đây có thể có sự tồn tại của bò xám, một loài động vật hoang dã qúy hiếm có tên trong Sách Đỏ thếgiới .
2.1.6 cao nguyên Pleiku.
Nhắc đến Pleiku, ta liên tưởng đến bài hát quen thuộc trong đó có các câu :
Em Pleiku má đỏ môi hồng
Ở đây buổi chiều quanh năm mù sương..,
Cao nguyên Pleiku, với diện tích 4 500 km2, có cao độ trung bình 800 mét, trước kia là một vùng thấp nhưng có dung nham núi lửa phun trào lên và lấp lên khá dày, lâu ngày hoá thành đất đỏ; hiện nay vẫn còn một đỉnh núi lửa đã tắt, ngọn Chi Hdrung có cao độ 1 025 mét và quanh ngọn núi lửa còn có những hồ miệng núi lửa như hồ Do Nau Eng Prong.
Dạng vòm cao nguyên Pleiku tạo ra đường chia nước của hai lưu vực: phía Đông là sông Ba chảy xuống Tuy Hoà và phía tây là lưu vực sông Mekong.
Phía Đông cao nguyên Pleiku là những rặng núi granit và rhyolit kéo dài của thượng Kontum; quốc lộ 19 từ Qui Nhơn lên Pleiku phải xuyên qua đèo Mang Giang (740m).
Phía Tây cao nguyên Pleiku có cao độ thấp hơn; đặc biệt tại đây có địa danh PleiMe với thung lũng Ia Drang là nơi đã từng xẩy ra những trận kịch chiến với quân đội Bắc Việt năm 1966.
Giữa cao nguyên Pleiku và Dak Lac, có giãy núi granit Chư Pha (732m), đầu nguồn Ea Heo.
2.1.7 cao nguyên Dak Lac.
Cao nguyên này có cao độ trung bình 400-500 mét, và khá bằng phẳng xung quanh thành phố Ban Me Thuot. Phía đông-nam Ban Me Thuot là các dòng sông Krong Anna, Krong Kno và có những cánh đồng phù sa rộng lớn như quanh hồ Lạc Thiện.
Đây là nơi người dân tộc Rhade sinh sống; tộc người Rhade có trình độ văn hoá khá cao, so với các tộc người khác; họ biết trồng lúa nước. Ban Don phía tây Dak Lac là một địa danh chuyên nghề săn bắt và thuần dưỡng voi.
2.1.8 cao nguyên M 'Drak (Khánh Dương).
Cao nguyên này có cao độ quãng 500 mét, nằm giữa Ban Me Thuot và Ninh Hoà, có dạng lượn sóng nghiêng về phía Tây. Thấp dần về phía đông nam đến hồ Lạc Thiện (Lac), nằm ở một nơi trũng ăn thông với sông Krong Ana, thấp dần về phía Tây xuống thung lũng sông Srepok.
2.1.9 cao nguyên Dak Nong (Gia Nghĩa trước 1975).
Cao nguyên Dak Nong, với diện tích 3 800 km2, nằm phía tây cao nguyên Di Linh và phía nam cao nguyên Dak Lac. Có thị xã chính là Gia Nghĩa, trước 1975, thuộc tỉnh Quảng Đức. Vào thời đại xa xăm của địa chất, cao nguyên Di Linh và Dak Nong là một khối thống nhất nhưng bị các hoạt động đào xẻbởi sông Da Dung và các phụ lưu nên không còn giữ mặt bằng ban đầu nữa mà chia ra các mảng nhỏ lớn khác nhau.
2.1.10 cao nguyên Blao-DiLinh.
Cao độ 800m, nhiều đất đỏ trên cao, cùng với các thung lũng rộng, cao nguyên này có địa hình bằng phẳng hơn và kéo dài lên đến Đức Trọng Liên Khàng, có sông Da Dung tức thượng lưu sông Đồng Nai, cũng có hướng nghiêng từ đông sang tây với độ chênh cao chừng 200 mét.
2.1.11 cao nguyên Dalat .
Dalat là do 2 chữ Đà (sông, suối) và Lạt (một tộc người tên Lạt).Với độ cao 1500 mét, bao quanh là những giãy núi xấp xỉ 2 000 mét. Bề mặt cao nguyên bị chia cắt mạnh, tạo ra những dãy đồi dài với sườn khá dốc; đây là một thành phố hoa, rau, quả á nhiệt đới (mận). Phần lớn là đá phiến sét, đá granit chứ ít có đá bazan. Phía Bắc và phía Đông có hai ngọn núi là Langbian (2153m) và Biđúp (2286m). Rừng cây gồm nhiều loài thông 2 lá, thông 3 lá.
Tây Nguyên không phải chỉ gồm các cao nguyên mà thôi mà còn cả các đồng bằng, thung lũng, trũng, bàu .
2.2 vùng đất thấp.
Từ Bắc xuống Nam, ta ghi nhận các thung lũng sau đây:
2.2.1 thung lũng sông Bla ở Kontum.
Sông Bla (Dak Bla) chảy qua phía nam thị xã Kontum có thung lũng với đồng bằng phù sa trồng lúa nước.
2.2.2 thung lũng Cheo Reo-Phú Túc ( Phú Bổn).
Thung lũng này, có cao độ 160m, ở giữa rìa nam cao nguyên Pleiku và kéo dài đến phía gò đồiđồng bằng Tuy Hoà. Trong thung lũng, có hai sông chính là sông Ba và Ea Ayunh chảy qua. Vào thời xưa, cách đây cả ngàn năm, chính qua thung lũng này mà người Chăm đã sử dụng để lên TN; tại Cheo Reo còn có các di tích Chăm. Và cũng chính qua thung lũng Cheo Reo này, năm 1975, khi Pleiku và Darlac thất thủ, quân dân Pleiku đã nhờ đường này mà về được Tuy Hoà vì lúc đó dọc đường 19 từ Pleiku xuống Qui Nhơn đã bị quân Cọng Sản Bắc Việt chiếm. Ngày nay, toàn thung lũng Cheo Reo này thuộc huyện Krong Pa, tỉnh Gia Lai (tức tỉnh Plei Ku)
2.2.3 thung lũng An Khê.
Thung lũng này nằm giữa đường Pleiku đi Qui Nhơn; nhiều loại đất xám và có dòng sông Ba chảy qua. Diện tích quãng 600-700km2, cao độ 400-450m. Vì gần Bình Định nên cư dân thung lũng này phần lớn là người miền xuôi từ Bình Định lên khai phá..
2.2.4 thung lũng Lạc Thiện.
Có nhiều hồ và nhiều đất phù sa úng trũng của hai sông Krong Anna và Krong Kno. Nằm về phíaĐông Nam thị xã Ban MeThuot, trên đường đi Đức Trọng phía nam Dalat.
Đây là vùng sụt lún, thấp hẳn xuống so với cao nguyên Ban Me Thuot ở phía Bắc và dãy núi Chu Yang Sin (2 405m) ở phía Nam; vì dễ lụt nên muốn tăng sản lượng nông nghiệp cần nghiên cứu thoát nước.
2.2.5 bình nguyên Ia Sup (Ea Sup).
Phía Tây Ban Me Thuot, nằm giáp với biên giới Campuchea là bình nguyên Ea Sup có cao độ 200-300 mét. Bình nguyên giới hạn về phía bắc bởi cao nguyên Pleiku. Lượng mưa không lớn, nhưng vì ở đây có nhiều đất xám khó thoát nước nên nhiều vùng bị ngập lụt còn vào mùa khô, các khe suối đều cạn nước.
Trong các điều kiện ấy, thảm thực vật là rừng dầu thưa, chỉ trừ các vùng ven suối SrePok là có rừng ẩm nhiệt đới. Mộtđịa danh nổi tiếng về nuôi voi, Ban Don, nằm trong sinh hệ nàỵ. Dưới rừng dầu thưa là thảm cỏ nên trong bình nguyên này, có nhiều loài động vật ăn cỏ .
Trên kia, chúng ta vừa đề cập đến các vùng thiên nhiên hoặc các hệ sinh thái. Có người sẽ hỏi công việc phân loại như vậy có ích lợi gì ?
Sự phân loại thành các hệ sinh thái như trên giúp ta hiểu thêm các vấn nạn phát triển của từng vùng một vì mỗi hệ sinh thái có những vấn đề riêng rẽ mà hệ sinh thái kia không có. Ví dụ: bài toán phát triển đồng bằng sông Ba, với khí hậu khô khan khác với bài toán phát triển của cao nguyên Kontum.
Ngay cả đồng bằng với nhau, nhưng đồng bằng Lạc Thiện với đất ẩm, úng thủy cũng khác vớiđồng bằng sông Bla ở Kontum.
Thực vậy, tính chất của đồng bằng phụ thuộc rất nhiều vào bồn lưu vực của dòng sông: một bồn lưu vực có đá granit hay các đá gnai (gneiss) sẽ cho nhiều loại đất có sa cấu thô, còn bồn lưu vực đá bazan sẽ cho đất mịn hơn.
3. Khí hậu
Mùa mưa TN diễn ra từ tháng 5 đến tháng 10 với cao điểm là tháng 7. Mùa nắng kéo dài 4 tháng, từ tháng 12 đến tháng 3, với hai tháng khô (1,2). Đó là nói trên tổng quát chứmỗi vùng thiên nhiên nói trên cũng có những chi tiết khí hậu khác nhau:
.cao nguyên Ban Mê Thuột có vũ lượng chừng 1 900 mm /năm và nóng hơn Pleiku vì cao độ thấp hơn. Tháng nóng nhất trên 25 0 (tháng 4: 250 , tháng lạnh nhất 20 0 .
.cao nguyên Pleiku, lạnh hơn và mưa nhiều hơn vùng Ban Me Thuot (vũ lượng 2 450mm), nhưng mùa nắng lại gắt hơn so với Ban Me Thuot.
.cao nguyên M'Drak (Khánh Dương), giữa Ban Me Thuot và Ninh Hoà, mưa nhiều hơn Ban Me Thuot (2 800mm) nhưng mưa khởi sự trễ hơn Ban Me Thuot.
.cao nguyên Bảo Lộc-Di Linh mưa đến 2 500mm, tập trung 85% lượng mưa vào mùa mưa nên thích hợp với các cây trồng lấy lá như cây trà.
.cao nguyên Dalat, với cao độ trung bình 1 500 mét nên khí hậu mát với nhiệt độ trung bình không dưới 160 C nhưng cũng không vượt quá 200 C. Lượng mưa trung bình 1 500mm.Đặc biệt là về đêm, khi mặt trời vừa ngủ, sương mù dâng lên từ nhiều thung lũng dần dà tan loãng trên bầu trời đêm gây ra một ánh trăng huyền ảo, trăng mờ đỉnh núi như bài thơ của Hàn Mạc Tử :
Trời mơ trong cảnh thực huyền mơ
Trăng sao đắmđuối trong sương nhạt
Như đón từ xa một ý thơ
Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều
Để nghe dưới nước đáy hồ reo
Để nghe tơliễu run trong gió
Và để xem trời giải nghĩa yêu
.thung lũng Cheo Reo, cao độ 160 mét thì vừa rất nóng và rất khô vì mưa ít hơn so với các cao nguyên nói trên. Thực vậy, thung lũng này ở giữa hai dãy núi cùng hướng tây bắc-đông nam, nên bị khuất gió mùa tây nam lẫn gió mùa đông bắc, do đó rất khô khan. Lượng mưa trung bình chỉ 1 300 mm.
.tại vùng biên giới Lào-Việt ở bắc Kontum là vùng đất 'bên nắng đốt, bên mưa quay'vì trong khi sườn núi phía đông giãy Trường Sơn (phía Việt Nam) có mưa nhiều thì giãy phía Tây Trường Sơn (phía Lào) lại là mùa nắng.
Tóm lại, nhiều vùng TN có mùa nắng quá dài và thung lũng lại quá sâu so với các vùng đất cao nên thiếu nước để trồng trọt là một cưỡng chế cho sự phát triển nông nghiệp. Tuy nhiên, cao nguyên Trung phần có một ưu điểm khác với miền duyên hải Trung Việt là không có bão lụt, không có gió Lào khô cháy.
4. Sông ngòi.
Để dễ hiểu, có thể chia hệ thống sông ngòi TN ra làm 2: hệ thống chảy ra Biển Đông và một hệthống khác chảy về phía sông Mekong:
4.1. hệ thống chảy về Biển Đông.
-sông Baphát nguyên từ núi Ngoc Lĩnh thuộc Kontum, chảy theo hướng Bắc-Nam qua An Khê,đến Cheo Reo (Hậu Bổn) và sau đó chuyển sang phía Đông về Tuy Hoà. Sông Ba có nhiều nhánh phụ, trong đó phải kể sông Ea Ayunh là lớn nhất.
-sông Hinhtừ cao nguyên Dak Lac chảy vào Sông Ba ở Phú Yên.
-sông Đồng Nai phát nguyên từ cao nguyên Dalat, chảy xuống Di Linh, qua địa phận cao nguyên Gia Nghĩa rồi mới chảy xuống miền Đông Nam phần, gặp sông La Ngà gầnĐịnh Quán và gặp sông Bé gần Tân Uyên sau đó mới họp với sông Saigon ở Nhà Bèđể chảy về Cần Giờ ở Biển Đông:
Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai về GiaĐịnh Đồng Nai thì về
4.2. hệ thống chảy về sông Mekong.
-sông Poko, bắt nguồn từ phía tây núi Ngọc Lĩnh, có 3 nhánh sông lớn là: Dak Bla dài 141km, sông Sa Thầy dài 140km, sông DakBơ dài 150km. Phía hạ lưu sông Poko là sông Sesan. Toàn lưu vực sông Sesan có nhiều tiềm năng thủy điện và hiện có nhà máy điện Yali công suất 690 megawatt với diện tích hồ chứa nước là 64.5 km2. Sau Yali, còn dự án xây bốn đập khác trên sông này và tổng số megawatt của bốn đập này sẽ bằng 2.5 lần công suất Yali nhưng có thể với phá rừng làm rẫy của các tộc người thì tuổi thọ các đập này sẽ giảm nhanh vì lòng hồ dễ bị bùn lắng tụ làm giảm thể tích nước.
-sông Ea H'Leo và hai chi lưu là Ia Drang và Ia Sup ở phía Tây Pleiku, bắt nguồn từdãy núi Chư Hron, chảy theo hướng Đông Tây rồi đổ về sông Srepok sau đó chảy vào sông Mekong ở StungTreng (Kampuchia).
-sông Srepokdài 332 km với hai nhánh sông chính tại Darlac là sông Krong Ana và Krong Kno:
-Krong Ana chảy ở phía Đông-Nam tỉnh Dak Lac, theo hướngĐông-Tây và có nhiều phụ lưu như Krong Bông, Krong Buk, Krong Pak.
-Krong Knô (Krong Nô) bắt nguồn từ phía TB cao nguyên Lâm Viên chảy theo hướng ĐN-TB
Hai sông Krong Ana và Krong Knô họp lại thành sông Ea Krông, tạo nên nhiều đất phù sa phía Đ-N Ban Me Thuot.
Ngoài các sông chính trên, miền cao nguyên còn vô số suối, khe cũng như nhiều hồ, có cái thiên nhiên như hồ Lac ở phía Đông Nam Ban Me Thuot, có cái nhân tạo như hồ Xuân Hương, hồ Than Thở ở Dalat, hồ đập thủy điện Yali, hồ đập tưới ruộng v.v.
5. Đất đai.
Vì TN có nhiều hệ sinh thái khác nhau về địa mạo, khí hậu, đá mẹ v.v nên cũng có nhiều loại đất khác nhau.
Sau đây là những loại đất chính:
5.1 đất đỏ (còn gọi là đất feralit, đất latosol nâu đỏ) thuộc nhóm Ferralsols (phân loại FAO).
Nhiều cao nguyên có đất đỏ do đá bazan tạo ra;đất đỏ bao trùm một diện tích rộng lớn ở cao nguyên Ban Me Thuot, cao nguyên Pleiku, cao nguyên Blao-Di Linh-Đức Trọng và cao nguyên Quảng Đức (Gia Nghĩa).
Về nguồn gốc,đất đỏ do sự phong hoá của đá bazan; dưới tác dụng của vũ lượng lớn và nhiệt độcao, sự tan rã các đá này rất nhanh chóng; chất SiO2 trong đá bị trôi xuống sâu còn lại chất Fe2O3 và Al2O3 và vì trongđất có sắt (fer) và alumin (al) nên người ta còn gọi là đất feralit; vì có nhiều oxyd sắt nên đất có màu đỏ.
Đất đỏ gặpở các cao nguyên Pleiku, Dak Lac, Gia Nghĩa, Blao-Di Linh với diện tích ước chừng 1,3 triệu ha, nghĩa là 23% tổng số đất của toàn vùng. Nói chung, đất đỏcó độ dày sâu, có khả năng giữ ẩm độ tốt ở tầng sâu và do đó thích hợp với các loại cây kỷ nghệ lâu năm như cà phê, cây ăn trái, cây trà v.v.tuy nhiên vì cao nguyên có mùa nắng kéo dài nên các công trình thủy lợi như giếng nước, các đập, hồ chứa sẽ giúp cho phát triển nông nghiệp.
5.2 đất feralit (podzolic) vàng đỏ .
Ngoài đất đỏ,phải kể đất podzolic vàng đỏ do diệp thạch hay đá hoa cương tạo nên. Nhóm đất này rất nhiều vì có thể gặp trên các địa hình núi cao, địa hình đồi dốc và trên các loại đá khác nhau như đá phún xuất (granit) hoặc các đá biến chất như phiến thạch, sa thạch, tóm lại đây là nhóm đất có nguồn gốc địa chất phức tạp. Có thểgặp các loại đất này ở cao nguyên Lang Biang (Dalat), cao nguyên M'Drak, các vùng phía núi Ngoc Lĩnh ở bắc Kontum. Đất này dễ bị sói mòn và ít phì nhiêu hơnđất đỏ. Sự xuất hiện của đá ong (laterit) ở tầng cạn gây trở ngại cho các loài cây có hệ thống rễ sâu do đó, không thể trồng những loại cây này trên những đất có giải đá ong gần mặt đất.
5.3 đất sétđen nhiệt đới (Black tropical clays).
Tại thung lũng Cheo Reo, có những chỗ có đất sét đen nhiệt đới vì vùng này khí hậu rất nóng và khô. Đây là những đất nằm trên các phù sa cổ sinh gặp ở địa hình bằng phẳng, nhiều sét, úng thủy và có màu đen, khó cày bừa; vào mùa mưa, đất nhão ướt, vào mùa nắng, đất này co rút lại nên đất nhiều khe hở làm sự bốc hơi nước càng dễ dàng, do đó rất khô vào mùa nắng.
5.4 đất đỏbụi (Earthy Red Latosols).
Quanh thị xã Pleiku là đất đỏ bụi; tuy cũng do đá bazan hủy hoại mà thành, nhưng thời gian tạo thành đất đỏ bụi xưa hơn đất đỏ vùng Darlac; ngoài ra, sự thoát thủy tại vùng Pleiku mạnh hơn, thủy cấp sâu hơn, vì dòng sông Ba và Ea Ayunh chảy qua cao nguyên Pleiku gần biển hơn, nói khác đi các dòng sông này thoát ra biển trên một đoạn tương đối ngắn nên sông ngòi đào xẻ dữ dội hơn khiến sự xói mòn các cảnh quan mạnh hơn, vì vậy độ phì nhiêu thấp hơn.
5.5 đất phù sa.
Những đất phù sa ôm ấp triền sông dọc theo sông Ba chảy qua thung lũng Cheo Reo, dọc theo sông Krong Anna ở Đông Nam Darlac. Các dất phù sa do nhiều loại đá (bazan, granit, rhyolit) phân hủy rồi được chuyên chở theo các dòng nước và dần dần lắng tụ lại. Ven các dòng sông, đất phù sa thường cao hơn, dễ thoát nước hơn còn phù sa xa sông có nhiều thành phần sét và ở các cảnh quan trủng nên khó thoát nước. Đất phù sa có mức độ phì nhiêu thay đổi tùy theo diện tích của bồn lưu vực, của loại đá mẹ và tùy theo khí hậu. Ví dụ: phù sa thung lũng Cheo Reo, vì khí hậu khô khan nên pH đất cao hơn (6-6.5) trong khi phù sa các vùng khác như Kontum, Ban MeThuot có pH thấp hơn (5-5.5).
Có thể gặp đất phù sa ở các vùng sau đây tại TN:
.vùng Kontum, ven Dak Bla (Dak: sông).
.vùng Cheo Reo, ven sông Ba và sông Ayunh.
.vùng Ban Me Thuot, phía Đông Nam, như tại quanh hồ Lạc Thiện cũng như dọc theo hệ thống các dòng sông Krong Anna, Krong Pach.
5.6 đất xám.
Nhiều loại : đất xám điển hình (Haplic Acrisols),đất xám trên các vùng đất có mực nước không xa đất mặt, còn gọi là đất xám glây (Gleyic Acrisols), đất xám có sỏi laterit, còn gọi là đất xám kết von (Ferric Acrisols), đất xám feralit (Ferralic Acrisols). Sau đây là vài chi tiết :
Đất xám điển hình hoặc bạc màu (Haplic Acrisols) có thể gặp trên đá macma axit và đá cát (sandstone), trên phù sa cổ sinh của các dòng sông lớn như sông Ba ở Cheo Reo, Dak Bla ở Kontum. Còn ra, có thể gặp phía tây cao nguyên Ban Me Thuot, ở bình nguyên Ea Sup do đá cát phân hủy.
Trong nhóm đất xám, các tính chất lý hoá học rất biến thiên:
-vùng Ban Don phía tây Ban Me Thuot có nhiều cát thô, nghèo nàn và khô khan.
-vùng Cheo Reo, đất xám có nơi đất cát thô, có nơi đất có khả năng giữ nước nhiều hơn. pH đất xám ở Cheo Reo cao (6-6.5) vì khí hậu khô khan , các nơi khác thì pH thấp hơn.
-vùng phù sa cổ sinh các dòng sông Krong Kno, Krong Anna ở Darlac có đất xám phì nhiêu hơn vì sa cấu mịn hơn, không nhiều đá và có địa hình lượn sóng có độ dốc nhẹ, trồng lạc, hoa màu phụ ..
5.7 đất xói mòn mạnh trơ sỏi đá (Leptosols).
Đất này rải rác trên các vùng, đặc trưng ở trên các vùng đá sát mặt đất khó trồng trọt (Lithic Leptosols).
5.8 đất mùn alit núi cao (Alisols).
Loại đất này gặp tại vùng núi cao độ từ 2 000m trở lên như trên các đỉnh núi Ngọc Lĩnh, Ngọc Ang, Chư Yang Sin .
5.9 đất nâu thẫm trên bazan (Chromic Luvisols) gặp tại các địa mạo thung lũng bằng, có tầng mặt giàu mùn.
5.10 đất đá bọt (Andosols) trên đá bọt bazan.
Đây là đất trên miệng núi lửa, gặp ở các đất gần các miệng núi lửa ở Pleiku có màu nâu đen lẫn nhiều cục đá thô.
Nhìn chung về phân phối đất thì :
-các đất đỏ nhiều nhất ở Dak Lac, Dak Nong, Pleiku và Lâm Đồng.
-các đất podzolic (feralit) vàng đỏ thường gặpở Kontum và Dalat .
-các đất podzolic xám thường phân bố ở Cheo Reo (Phú Bổn) và Tây Dak Lac.
-các đất phù sa nhiều ở Đông Nam Dak Lac.
Riêng các nhóm đất như Andosol, Alisol, Leptosol có rất ít so với các loại đất vừa kể.
Mời đọc tiếp phần 2.