17/9/2015
Xã hội đen Nhật Yakuza: quá khứ và tương lai
GS Tôn thất Trình
|
Dẫn nhập
Ý có La Cosa Nostra. Hoa Kỳ có Mafia. Các dân Ái Nhĩ Lan và Do Thái có các tổ chức tội hình của mình ở Hoa Kỳ . Đông Nam Á có các hội Tam Hoàng. Trung Quốc , Hồng Kông và Đài Loan có các Tong. Chúng đúng là những tổ chức hình tội đã biết rỏ .Nhưng một tổ chức không kể trên đã có mặt trên 300 năm rồi , có nhiều danh dự hay nguyên tắc như mafia ,mạnh mẽ như thế và e có khi còn mạnh mẽ hơn nữa ! Nhóm này là Yakuza .
Lịch sử yakuza , thời phong kiến
Kabuki- Mono
Nguồn gốc niên đại yakuza có thể từ năm 1612 , nghĩa là chỉ sau năm tân hợi 1611 một năm , khi Thái tổ nhà Nguyễn Phước , lúc đó mới là Chúa Tiên Xứ Đàng Trong, sai Chủ sự là Văn Phong đánh Chiêm Thành, lấy đất bên kia Đèo Cù Mông đến núi Thạch Bi , đặt thành phủ Phú Yên . Là năm Nam Tiến đầu tiên của các chúa Nguyễn .
Lúc đó chúng được dân gian Nhật biết dưới tên là kabuki – mono ,những kẻ cuồng si ,- the crazy ones . Các chức quyền địa phươnglưu tâm đến chúng vì chúng mặc áo quần và hành vi kỳ lạ, cắt tóc ngắn cụt, song song với những bảo kiếm dài đeo hai bên hông. Kabuki- mono có thói quen là gây mâu thuẩn và làm khiếp sợ bất cứ ai tùy thích , ngay cả chém ngã gục một ai đó vì sở thích riêng .
Kabuki mono là những hiệp sĩ Nhật – samurai lạ thường, lấy nhiều tên quá đáng cho băng đảng và nói năng theo tiếng lóng – slang. Tín nghĩa , trung thành cùng nhau cũng đáng ngạc nhiên . Chúng sẽ bảo vệ nhau mỗi khi có đe dọa , kể cả đe dọa cho gia đình chúng . Thật tế , chúng là những bầy tôi – servants cho tướng quân – shogun , tên gọi là hatamoto –yakko – Servants of the shogun. Nhóm gồm đến gần 500 000 samurai , bị bó buộc thất nghiệp vào thời bình ở thời đại Tokugawa , khiến chúng trở thành ronin –“ người sóng , Wave man” một samurai không có chủ nhân. Nhiều kabuki- mono trở thành ăn cướp , cướp bóc thị trấn và làng xã khi chúng lang thang khắp nước Nhật .
Hatamoto –yakko không thật sự là tổ tiên yakuzạ . Thay vào đó, yakuza xem machi yokko - bầy tôi thị trấn - servants of the town mới là tổ tiên chúng . Đó là những ai lấy súng ống bảo vệ làng xã và thị trấn chống lại hatamoyo –yakko. Đây là những ai có công việc như thư lại , chủ tiệm , chủ quán, lao động , các chiến binh không nhà cửa ,và các ronin khác . Ai thuộc thành phần machi - yokko là một tay cờ bạc sành sỏi , giúp chúng phát triễn những liên hệ chặc chẻ cùng nhau và với các lảnh tụ , như thể yakuza ngày nay. Rồi machi -yakko ,sau đó , trở thành những anh hùng dân giả , được dân thành thị tán thưởng nhờ các hành động chống lại hatamoto- yakko, dù rằng phần lớn chúng không được huấn luyện và yếu kém hơn hatamoto- yakko. Chúng giống như các hiệp sĩ Anh Robin Hood vậy đó . Vài machi- yakko là đề tài chuyện kể và kịch diễn
Yakuza sớm nhất xuất hiện giữa và cuối thiên niên 1700 s. Thành viên bao gồm các bakuto – tay cờ bạc truyền thống và tekiya - kẻ bán dạo, hàng rong . Những từ này vẫn còn dùng ngày nay để chỉ các thành viên yakuza , dầu có nhóm thứ ba gurentai - côn đồ hung hãn , hoodlum thêm vào hậu Thế Chiến Thứ Hai. Mọi người các nhóm này có một nền tảng chung: nghèo nàn , không đất đai , phạm tội hay không thích nghi ngọai cảnh. Các nhóm xích lại gần nhau ở cùng một vùng nhỏ không có vấn đề gì , khi bakuto sinh sống dọc theo các xa lộ và thị trấn, còn tekiya họat động ở các chợ và chợ phiên Nhật .
Yakuza bắt đầu tổ chức thành họ - gia đình , chấp nhận một liên hệ dưới tên gọi là oyabun – kobun ( nhiệm vụ cha/ nhiệm vụ con ) . Oyabun là “ cha “ cũng cấp khuyên bảo – cố vấn , bảo vệ và giúp đở ; kobun hành động như là “ con” , thề nguyền là trung thành vững chắc và làm dịch vụ mỗi khi oyabun cần đến . Lễ nhập hội cho yakuza cũng phát triễn vào thời kỳ này. Thay vì uống máu ăn thề như kiểu Mafia và các Tam hòang , các yakuza đổi nhau các chén rượu sa kê , tượng trưng cho gia nhập vào yakuza và liên hệ oyabun – kobun. Số lượng sa kê rót vào mỗi chén tùy thuộc địa vị mỗi người , các tham dự có thể là cha- con, anh em- anh em , trẽ - già v.v… Lễ thường thực thi trước một bàn thờ Shinto , đem lại ý nghĩa tôn giáo cho việc nhập hội .
Tekiya
Lịch sử tekiya còn rất tranh cải . Lý thuyết được chấp nhận rộng rải là tekiya đến từ yashi , nguyên cũng có nghĩa là bán dạo . Yashi là những kẻ bán dạo du hành về thuốc men, tương tự các kẻ bán dầu rắn – oil snake của miền Tây Hoa Kỳ . Theo thời gian, đây là từ dung chung cho tất cả những kẻ buôn bán và bán hàng rong. Các tekiya nhập chung lại cùng nhau để bảo vệ và quyền lợi chung từ chế độ Tokugawa. Chúng khởi sự bằng kiểm sóat các sạp hàng ở chơ phiên và các chợ . Chúng nổi danh vì hàng hóa tồi tệ, ai cũng biết . Cách chúng bán cũng rất sai quấy . Chúng nói láo về nguồn gốc và phẩm giá sản phẩm . Chúng hành động như kẻ say rượu và thường trình bày là hàng hóa chúng bán rẽ rề, để tỏ ra là chúng không biết mình đang làm gì . Chúng sẽ đánh lừa khách hàng. Tekiya phỏng theo kiểu tổ chức yakuza thường lệ : oyabun , dưới trướng lảnh tụ - underboss , sĩ quan , kẻ nhập hội và đang thực tập. Oyabun kiểm sóat kobun và cấp phát các sạp hàng song song với hàng hóa có mặt . Chúng cũng thu các tiền cho thuê và tiền bảo vệ , bỏ túi khác biệt giữa hai nguồn lợi tức này. Mọi điều chúng làm thảy đều hợp pháp . Giữa thiên niên 1700s, các chức quyền phong kiến công nhận và như vậy làm tekiya tăng quyền hạn . Oyabun được cấp quyền làm giám sát , nay đã có thể có một danh tánh riêng và mang theo hai bảo kiếm tương tự như samurai , hầu giảm thiểu đe dọa các cuộc chiến đua chen nhau vì gian lận tràn lan . Tuy nhiên, tekiya vẫn ôm đồm vài tính trạng hình tội tỉ như bảo vệ các rắc két , che dấu kẻ trốn tránh và các tội đồ hình tội đã biết và cải lộn ầm ĩ với các tekiya và băng đảng khác.
Bakuto , những tay cờ bạc
Trước hết, bakuto đã được nhận diện từ thời Tokugawa , khi chánh phủ thuê chúng đễ đánh cờ bạc trên xây cất và các công nhân làm tưới tiêu- dãn thủy nhập điền, hầu thu lại một phần mối lợi lương bổng các công nhân . Bakuto góp phần truyền thống Nhật về cờ bạc cũng như thủ tục “cắt cụt ngón tay – finger cutting” yakuza truyền thống và nguồn gốc từ ngữ “ yakuza” . Từ ngữ này phát xuất từ một tay bài tây ,bài lá - card game tên là hanafuda – bài hoa, flower card , y hệt bài xì lát ? – blackjack . Mỗi tay con nhận 3 lá bài và số cuối của tổng số đếm ra là con số cho tay đánh bài. Tay của 20 là số tệ hại nhất, nghĩa là số không – zêrô. Một phối hợp thua bạc là 8-9-3 hay ya- ku- sa , bắt đầu được sử dụng rộng rải, vì có nghĩa là vô dụng. Từ ngữ này được dùng cho bakuto, vì tựu trung chúng tổng quát là vô dụng cho xã hội .
Yubitsume , thủ tục cắt cụt ngón tay được Bakuto dẫn nhập . Đoạn chót ngón tay út được cắt xén nghiêm chỉnh, có nghĩa là làm yếu bàn tay đi , vì tay cờ bạc không còn nắm chặc được bảo kiếm nữa. Thực thi Yubitsume thường là một hành động xin oyabun tha lỗi . Phạm lỗi mới sẽ phải cắt cụt hoặc một đọan mới ngón út hay đoạn chóp một ngón khác . Đây là trừng phạt cuối cùng, trước khi trục xuất . Cách dùng các xâm chàm cũng đến từ khía cạnh tội đồ của bakuto. Các tội đồ hình tội thường khắc xâm chàm một vòng đen quanh một cánh tay cho mỗi khi chúng phạm lỗi. Tuy nhiên, các xâm chàm mau lẹ trở thành một thử nghiệm sức mạnh, vì cần 100 giờ đồng hồ mới hòan tất một xâm chàm đen . Xâm chàm cũng đánh dấu một thiếu thốn, không thích nghi cảnh vât – misfit , luôn luôn không muốn thích nghi vào xã hội .
Cận đại hóa Yakuza
Những năm Phục hồi
Thời Phục hồi Minh Trị Thiên Hòang- Meiji Restoration khởi sự năm 1867, giúp Nhật bản tái sinh và lần đầu tiên làm nhiều biến đổi để Nhật thành một quốc gia công nghệ . Nhật tạo dựng những đảng phái chánh trị và một quốc hội , cũng như một giới quân sự uy vũ . Yakuza cũng bắt đầu cận đại hóa theo cho kịp bước chân Nhật thay đổi mau lẹ. Chúng tuyển chọn thành viên từ các công việc xây cất và nhân công bến tàu . Chúng cũng bắt đầu kiểm sóat doanh vụ xe kéo – rickshaw . Cờ bạc, tuy nhiên, phải che dấu hơn nữa , vì cảnh sát đang cố phá vỡ các băng đảng bakuto. Khác bakuto, các tekiya lại thịnh vượng và mở rộng , vì các họat động của tekiya không bất hợp pháp , ít nhất là ngòai bề mặt.
Yakuza cũng bắt đầu học đòi về chánh trị , sát cánh với vài chánh trị gia và chức quyền . Chúng hợp tác với chánh phủ để được công nhận chánh thức hay ít nhất là vài tự do khỏi bị quấy rầy. Chánh phủ cũng tìm ra một cách dùng cho yakuza, như thể là hổ trợ cho siêu chủ nghĩa quốc gia – ultranationalists , là những kẻ thích nghi nhiệm vụ quân phiệt – militaristic trở thành dân chủ. Nhiều xã hội kín được tạo dựng và huấn luyện quân sự , huấn luyện ngôn ngữ , ám sát, tống tiền … Triều đại khủng bố của các siêu quốc gia chủ nghĩa tồn tại mãi cho đến thập niên 1930’s gồm có nhiều cuộc đảo chánh , ám sát hai thủ tướng và hai tổng trưởng tài chánh và nhiều tấn công liên tiếp các chánh trị gia và kỷ nghệ gia . Yakuza cung cấp sức maạnh –bắp thịt và nhân lực cho sự nghiệp và tham gia các chương trình “khẩn hoang- land development” ở Mãn Châu Nhật chiếm đóng và ở Trung Hoa . Thành viên các nhóm này hoặc hoạt động với chánh phủ , mặc quân phục hay bị bỏ tù.
Những năm Mỹ chiếm đóng Nhật
Lực lượng Hoa Kỳ chiếm đóng Nhật hậu chiến tranh , xem yakuza như thể là đe dọa căn bản cho các họat động mình. Hoa Kỳ bắt đầu điều tra các họat động yakuza . Năm1948, công việc Hoa Kỳ chấm dứt khi các lực lươợng nghĩ rằng điều tra đã chấm dứt và đe dọa đã hết hay ít nhất đã giảm thiểu. Tuy nhiên các lực lượng đã hạn chế thực phẩm làm tăng các doanh vụ chợ đen, giúp cho các băng đảng giàu có và uy quyền. Các băng đảng đủ khả năng để hành động không che dấu , vì cảnh sát dân sự không được võ trang. Ngay cả vài chức quyền Mỹ chiếm đóng cũng giúp đở yakuza .
Các gurentai bắt đầu thành hình trong thời gian Mỹ chiếm đóng vì có khoảng trống không quyền hạn trong chánh phủ, khi các kẻ chiếm đóng quét sạch lớp cao nhất ở chánh phủ và doanh nghiệp, không còn cho họ kiểm sóat nữa . Gurentai lúc này được xem như là dịch bản Nhật của Mob ( Hoa Kỳ ) lảnh tụ gurentai y hệt Al Capone ở Mob. Chúng hành sự phần lớn ở ngành chợ đen , nhưng cũng dùng đến đe dọa , cướp bóc và hung dữ ở các họat động chúng. Thành viên chúng là các kẻ thất nghiệp và các kẻ hồi cư . Chánh phủ dùng một gurentai làm kiểm soát viên lao động Triều Tiên ( Nam – Bắc Hàn ) , dù rằng hắn ta đã bị bắt giữ vì nhiều món tội hình tội . Lực lượng chiếm đóng mau lẹ nhìn thấy yakuza tổ chức giỏi dang và tiếp tục họat động dưới quyền hai oyabun được các chức quyền không xác định hổ trợ . Lực lượng chiếm đóng công nhận thất bại năm 1950 , khi họ nhận thức là họ không thể bảo vệ dân gian Nhật chống lại yakuza .
Các năm thời hậu chiến, yakuza trở nên hung dữ , trên kích thước tập thể cũng như cá nhân. Bảo kiếm là một điều quá khứ và súng ống nay là võ khí mới được lựa chọn. Yakuza tuyễn lựa các công dân bình thường, không chỉ là các tay bán hàng rong hay đánh cờ bạc hay những mục tiêu đặc thù nữa, vì nay mục tiêu của chúng là tống tiền theo tiếng lóng mỹ shakedown và cướp trộm . Bộ mặt chúng cũng thay đổi , dùng các phim găngxtơ Mỹ kiểu à la Guys and Dolls làm ảnh hưởng. Chúng cũng khởi sự đeo kiếng râm – che nắng , y phục đậm và cà vạt với áo sơ mi trắng và bắt đầu cắt tóc xén cụt thể thao – sport crewcuts . Giữa các năm 1958 và 1963 (thời gian ông Diệm nắm chánh quyền ở miền Nam Việt Nam ), số thành viên yakuza tăng thêm 150% , lên đến 184 000 người, lớn hơn tổng số quaân đội Nhật lúc đó. Tính ra có đến 5200 băng đảng họat động khắp Nhật. Các băng đảng yakuza bắt đầu qui định lảnh địa mình và những cuộc chiến tranh đẫm máu và hung bạo giữa chúng cũng xảy ra thường xuyên .
Còn tiếp