10/12/2015
PHẦN II:
PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT LÚA HIỆN ĐẠI:
TỪ 1954 ĐẾN NAY
1. MỞ ĐẦU
2. CÁC THỜI KỲ PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT LÚA
3. TRÌNH ĐỘ NÔNG DÂN VÀ ĐẶC TÍNH NÔNG HỘ TRỒNG LÚA
4. TIẾN HÓA KỸ THUẬT
5. KẾT LUẬN
3. TRÌNH ĐỘ NÔNG DÂN VÀ ĐẶC TÍNH NÔNG HỘ TRỒNG LÚA
Sự phát triển trình độ canh tác lúa của nông dân có thể được đánh giá theo mức độ chấp nhận các giống lúa cải tiến, kỹ thuật trồng lúa hiện đại và diễn biến năng suất lúa theo thời gian. Theo nghiên cứu của Trần Thị Út và Hossain (2000), diện tích trồng lúa cao năng tăng từ zero trong 1966 lên 300 ha năm 1967, độ gần 1 triệu ha năm 1980 và 6,6 triệu ha năm 1998 hay gần 90% tổng diện tích gieo trồng. Tổng quát, lúa gạo đóng góp 37% vào lợi tức của gia đình nông dân trong khu vực khảo sát. Lúa tưới tiêu đem về 41,5% (587,42 đô la) so sánh với lúa không tưới tiêu chỉ 18,2% (90,30 đô la).
Trong thời gian từ 1968 - 2009, năng suất lúa bình quân tăng từ 1,8 t/ha lên 5,2 t/ha, hay 4,3% mỗi năm. Có thể nói kiến thức của nông dân về trồng lúa từ Bắc chí Nam đã mở mang rất nhanh chóng trong thời CMX và Đổi Mới kinh tế, khi các kỹ thuật tân tiến và phương tiện truyền thông được mở rộng đến nông thôn. Nông dân Việt Nam rất thông minh, bén nhạy và mau hấp thụ các kỹ thuật tiến bộ và mới mẻ. Hiện nay đa số không còn mang bản chất bảo thủ đối với các kỹ thuật hiện đại nhập nội từ thế giới bên ngoài, như đã thấy trong thời Pháp thuộc. Họ sẵn sàng chấp nhận các kỹ thuật mới lạ, miễn mang đến lợi ích thiết thực. Trình độ kỹ thuật của nông dân đã biến chuyển khá rõ rệt từ thời đại phong kiến, thực dân đến cuộc CMX liên quan đến vụ mùa, làm đất, phương pháp canh tác, chăm sóc, bảo vệ mùa màng và thu hoạch (Bảng 4).
Dù vậy, ngành trồng lúa hiện nay còn mang tính chất chậm tiến với những nét đặc thù nổi bật như sau:
1) Năng suất bình quân còn tương đối thấp; chỉ 5,6 t/ha trên 7,9 triệu ha so với Trung Quốc 6,5 t/ha trên 29 triệu ha lúa (2009);
2) Chất lượng lúa và gạo còn kém ở thị trường nội địa và thế giới, chưa có thương hiệu nổi tiếng;
3) Sử dụng quá nhiều nhân công, đặc biệt ở Miền Bắc;
4) Ruộng đất phân chia quá nhỏ;
5) Phương tiện canh tác còn thô sơ;
6) Công nghệ bảo quản biến chế còn kém, nhứt là thiếu kho vựa hiện đại;
7) Thiếu thông tin nông nghiệp chính xác;
8) Thiếu tổ chức thị trường hữu hiệu có lợi cho nông dân;
9) Thanh niên nông thôn di chuyển ra thành phố và nơi có công nghiệp;
10) Đời sống nông dân trồng lúa và nông thôn còn thấp;
11) Chính sách hỗ trợ nông dân chưa đủ; và
12) Biến đổi khí hậu toàn cầu, nhứt là mực nước biển dâng cao và xâm nhập vào sông rạch hàng năm.
Đây là các lãnh vực cần được cải thiện để nâng cao khả năng cạnh tranh kinh tế, cải tiến đời sống nông dân và nông thôn với các chính sách, kế hoạch và quản lý nông nghiệp thích đáng.
Trong năm 2000, một nghiên cứu của IRRI về so sánh các nôi sản xuất lúa tại một số nước Châu Á, gồm Việt Nam (liên lạc với Dr. David Dawe) cho biết bình quân mỗi gia đình nông hộ trồng lúa có 6 người, có trình độ học vấn tương đương với nhau, khoảng 7 năm ở vào tuổi 47-48 tại một số vùng châu Á, như cánh đồng Trung bộ của Thái Lan; Trung bộ Luzon, Philippines; Tây Java, Indonesia; Zhejiang, Trung Quốc và đồng bằng sông Hồng, sông Cửu Long ở Việt Nam. Ngoại trừ trình độ học vấn cao hơn hết ở vùng Tamil Nadu, Ấn Độ.
Diện tích trồng lúa của nông dân Việt Nam và ngay cả đồng bằng sông Cửu Long quá nhỏ khi so sánh với các nước khác trong vùng. Thật vậy, diện tích trồng lúa bình quân của mỗi hộ ở ĐBSCL là 0,97 ha và ĐBSH là 0,31 ha, trong khi ở Tamil Nadu, Ấn Độ 4,30 ha, Trung bộ Thái Lan 4 ha, Trung bộ Luzon của Philippines 2,18 ha, Tây Java của Indonesia 0,69 ha và Zhejiang của Trung Quốc 1,18 ha. Điều này cho biết nông dân trồng lúa Việt Nam nghèo hơn nông dân các vùng nghiên cứu nêu trên.
Bảng 4: So sánh kỹ thuật canh tác lúa cổ truyền (đến 1967)
và lúa hiện đại (từ 1968 đến nay)
Canh tác lúa cổ truyền
|
Canh tác lúa hiện đại
|
1) Ở miền Nam, có 3 loại lúa: lúa Sớm (4-5 tháng), lúa Lỡ (51/2-61/2 tháng) và lúa Muộn hay Mùa (7-8 tháng). Ở miền Bắc có vụ lúa Chiêm và vụ lúa Mùa. Lúa Mùa quan trọng nhất;
2) Có khoảng 640.000 ha lúa nổi (nước sâu) ở Đồng Tháp Mười, với năng suất thấp độ 2 t/ha;
3) 100% giống lúa địa phương, thân cao, lá dài và cong, bị quang cảm, ít phản ứng đạm, dễ ngã, với năng suất độ 1-3 t/ha;
4) Chọn lựa giống lúa ở ngay ngoài ruộng; 23-40 kg/ha (Trần Văn Hữu, 1927);
5) Dùng tuổi mạ già (45-60 ngày) (Mạ vàng cấy lúa chóng xanh);
6) Cấy lúa 2 lần ở những nơi nước sâu (50-60 cm);
7) Cấy 5-10 cây mạ/bụi (cấy bằng nọc cây);
8) Cấy thưa với khoảng cách 40 x 40 cm; hoặc 70 x 70 cm ở một vài nơi ruộng sâu;
9) Ít hoặc không dùng phân hóa học, nhưng nhiều P thiên nhiên, phân hữu cơ, phân xanh;
10) Ít hoặc không dùng đến thuốc sát trùng, thuốc diệt cỏ;
11) Ít được tưới tiêu;
12) Ít được cơ giới hóa, sử dụng nhiều sức lao động từ làm đất đến thu hoạch và biến chế;
13) Hạt lúa dễ rụng nên gặt sớm hơn (Xanh nhà hơn già đồng);
14) Nông dân thường “đi mót” lúa (gié lúa rơi)
15) Quãng canh và độc canh;
16)Hiệu năng trồng lúa
kém.
|
1. Ở miền Nam, lúa Mùa ngày càng giảm bớt quan trọng do giống lúa ngắn ngày có năng suất cao; lúa Đông-Xuân và Hè-Thu trở nên quan trọng hơn. Ở Miền Bắc, lúa Xuân thay thế phần lớn vụ lúa Chiêm và hệ thống canh tác có thêm vụ màu mùa đông sau vụ Mùa;
2. Chỉ còn ít hơn 30.000 ha lúa nổi; diện tích còn lại đã biến đổi từ một vụ thành 2 vụ lúa cao năng;
3. Hơn 90% giống lúa cao năng hiện đại, thân ngắn, lá xanh đậm và thẳng, ít hoặc không có quang cảm, phản ứng đạm cao, năng suất bình quân 6-8 t/ha;
4. Nông dân mua hạt giống cải tiến, nhưng vẫn còn trao đổi giống với nhau, 20-40 kg/ha hạt giống cho lúa cấy, 70-100 kg/ha cho lúa gieo thẳng;
5. Mạ non từ 20-30 ngày (trên 30 ngày do nhiệt độ thấp ở Miền Bắc);
6. Cấy một lần vì nhiều nơi mực nước có thể được điều chỉnh;
7. Cấy 2-3 tép/bụi; Lúa sạ thẳng gia tăng;
8. Cấy dày (hẹp): 20 x 20 cm, 20 x 25 cm, 15 x 20 cm; 10 x 15 cm;
9. Dùng nhiều phân hóa học, N, P và K, ít phân hữu cơ hơn;
10. Dùng nhiều thuốc sát trùng, thuốc diệt cỏ và IPM;
11. Phần lớn ruộng được tưới tiêu (> 80%);
12. Một phần được cơ giới, đặc biệt làm đất, tưới tiêu, thu hoạch và biến chế;
13. Hạt lúa ít rụng hơn;
14. Không còn đi mót lúa;
15. Thâm canh hơn, vẫn còn độc canh nhiều lúa;
16. Hiệu năng trồng lúa được cải tiến, nhưng còn thấp.
|
Tóm lại, ngành trồng lúa Việt Nam đã bành trướng liên tục trong suốt 4.000 năm lịch sử của đất nước, với óc sáng tạo và quyết tâm của dân tộc cũng như khả năng hòa hợp và sàng lọc các kinh nghiệm, kiến thức được tích lũy từ chính mình, các nước láng giềng và những kẻ xâm lược. Do đó, trình độ trồng lúa nước ta luôn bắt kịp với các nước như Trung Quốc, Thái Lan, Philippines, Indonesia v.v. Thành tựu đó được phản ánh qua cuộc Cách Mạng Xanh cuối cùng của nhân loại đã phát khởi từ giữa thập niên 1960 tại Việt Nam, và thời kỳ Đổi Mới kinh tế từ 1988. Dù muộn hơn nhiều quốc gia khác, ngành sản xuất lúa bản xứ vẫn phát triển mạnh mẽ với các nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào; nhờ đó Việt Nam đã chiếm lĩnh ngôi vị thứ hai hoặc ba của các nước xuất khẩu lúa gạo thế giới trong hơn thập niên qua, nhưng chất lượng còn thấp kém và chưa có thương hiệu quốc gia nổi tiếng.
Hiện nay, trình độ kỹ thuật trồng lúa của nông dân Việt Nam không thua kém các nước láng giềng tiến bộ. Sự hiểu biết của nông dân về canh tác lúa để làm thức ăn căn bản cho gia đình đã chuyển hướng tích cực từ tuyển chọn các giống lúa có năng suất cao đến lề lối canh tác thâm canh hơn trong ruộng nước, rẫy, ruộng đất mặn, ruộng đất chua, đất than bùn; nhằm bảo đảm an ninh lương thực cho gia đình và xã hội. Nông dân đã và đang chuyển đổi sử dụng cuốc, cày, bừa, trâu bò, gặt hái, xa quạt lúa và kho vựa lúa gia đình qua sử dụng máy cày, máy kéo, máy bơm nước, máy gặt và hệ thống chế biến, tồn trữ tối tân. Tiến trình lịch sử trồng lúa của từng Miền, từng vùng sinh thái và cả nước đáng được làm đề tài nghiên cứu cho những sinh viên Đại Học trong nước.
4. Tiến bộ kỹ thuật (Trần Văn Đạt, 2005:280-347)
Trong hơn nửa thế kỷ qua, tiếp theo giai đoạn du nhập các kiến thức khoa học và kỹ thuật mới từ phương Tây trong thời Pháp thuộc, Việt Nam lại đón nhận thêm những tiến bộ mới, chủ yếu trong ngành công nghệ sinh học và công nghệ tin học, được áp dụng trong nông nghiệp nói chung và ngành trồng lúa nói nói riêng, với mục đích cải tiến hiệu năng sản xuất, năng suất, lợi tức nông dân và bảo vệ môi trường. Công nghệ tin học giúp người sản xuất thực hiện các kỹ thuật nông nghiệp chính xác và quản lý nông trại hữu hiệu trong mọi lãnh vực.
Ngành công nghệ sinh học tiến bộ rất nhanh vào hậu bán thế kỷ XX, được áp dụng trong nông nghiệp nhứt là khâu lai tạo di truyền hữu hiệu và chính xác, so với các kỹ thuật cổ truyền trong thời thực dân. Chẳng hạn, các tiến bộ trong mô học, kỹ thuật gien, nghiên cứu DNA, tái bản (cloning), đánh dấu phân tử, QTL (Quantitative trait loci), tạo giống nhờ đánh dấu gien, thông tin sinh học... góp phần giải quyết hữu hiệu các vấn đề kỹ thuật khó khăn mà các phương pháp truyền thống không làm được, như vấn đề hạn hán, ngập lut, đất có vấn đề (phèn, mặn), kháng sâu bệnh, phân đạm sinh học... Năm 2000, loại gạo vàng được sáng chế từ công nghệ sinh học, có tiềm năng lớn cứu giúp hàng triệu trẻ con khỏi bị mù lòa, chết sớm vì thiếu vitamin A trong các nước đang phát triển. Việc hoàn thành bảng đồ Genome cây lúa năm 2002 đã mở ra cánh cửa mới cho ngành tạo giống mới (siêu lúa, lúa Bt, cây lúa C4...), và đa dạng sinh học.
Cũng trong thời gian này, các kỹ thuật canh tác lúa mới xuất hiện, đặc biệt phương pháp bảo vệ vụ lúa tổng hợp IPM, nông nghiệp chính xác (Precision agriculture), kiểm tra lúa (Rice checks), thu hẹp khoảng cách năng suất (Yield gap closing), sản xuất lúa lai (Hybrid rice) (Xem Lịch sử trồng lúa Việt Nam tại www.tranvandat.com).
5. KẾT LUẬN
Lịch sử trồng lúa Việt Nam trải dài hàng ngàn năm, với sự xuất hiện các nền văn minh qua từng thời đại. Rõ ràng cây lúa có sự tương quan chặt chẽ với tiến hóa, lịch sử và đời sống văn hóa dân tộc Việt Nam. Qua nhiều thiên kỷ, cây lúa hoang dại trở thành cây lúa cao năng sản xuất 8-10 t/ha, trong khi nền văn minh Việt tộc tiến bộ không ngừng dù chậm chạp, từ đời sống hoang dã cổ sơ đến cuộc sống hiện đại hôm nay. Cư dân Hòa Bình có thể thuần dưỡng cây lúa dại cách nay khoảng 8.000-9.000 năm đồng thời với một số dân tộc khác ở Đông Nam Á. Sau đó, cây lúa phát triển dần theo thời gian với óc sáng tạo và kinh nghiệm con người. Các bộ lạc trồng lúa rẫy đã xuất hiện khắp nơi cách nay khoảng 5.000-6.000 năm trong nền văn hóa Bắc Sơn và Cầu Sắt-Suối Linh, đã tạo ra nền văn minh lúa khô sơ cổ, mang đến đời sống ổn định cho cư dân đất Việt và tạo yếu tố căn bản cho tiến bộ và văn minh dân tộc sau này. Vào thời Cổ Đại, người Lạc Việt đã thu thập một số kinh nghiệm và hiểu biết về ngành trồng lúa, chủ yếu trồng lúa nước. Thời kỳ này đã tạo nên một nền văn minh cổ Việt, còn gọi là văn minh lúa nước với nền văn hóa Đông Sơn rực rỡ, mở đầu kỷ nguyên mới cũng như trưởng thành dân tộc trong quá trình xây dựng đất nước.
Tiếp theo là thời kỳ Bắc thuộc rồi Độc Lập, sự tiến bộ nhứt định của ngành trồng lúa do tiếp xúc giữa hai nền văn hóa Đông Sơn và Hán Tộc, nhưng bị trì trệ lâu dài do ảnh hưởng sâu đậm Nho học thiếu tinh thần khoa học và kỹ thuật. Trong thời gian này, sản xuất lúa cổ truyền chỉ bành trướng do các chương trình khai khẩn đất mới và mở rộng lãnh thổ về phương Nam. Khi đất nước rơi vào vòng Pháp Thuộc, nhờ tiếp cận nền văn minh Tây Âu, ngành nông nghiệp lúa cải tiến bắt đầu khởi sắc, thấm nhuần kiến thức tân tiến và khoa học, đưa đời sống dân tộc đến ngưỡng cửa văn minh hiện đại để chuẩn bị cho cuộc Cách Mạng Xanh sau này. Tại Việt Nam, cuộc Cách Mạng Xanh bùng phát từ 1968 kéo dài đến giữa thập niên 2000, do ảnh hưởng chiến tranh và các chánh sách kinh tế sai lầm làm trì hoãn bước tiến hóa dân tộc cho đến thời kỳ Đổi Mới kinh tế từ năm 1988. Đây là thời kỳ sản xuất lúa hiện đại của xứ sở. Năm 2009, Việt Nam xuất khẩu gạo cao nhứt 6 triệu tấn và đứng vào hàng thứ 2 trên thế giới sau Thái Lan; tuy nhiên, đời sống nông dân trồng lúa vẫn còn nghèo khó, nông thôn còn kém văn minh do thiếu chính sách nâng đỡ tương xứng của nhà nước.
.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. FAO. 1994. Rice policy in Viet Nam. Prepared by the Inter-governmental Group on Rice, 37th session, Bangkok, Thailand, 28/11 – 2/12/1994, FAO, Rome, pp 22.
2. FAOSTAT. 2010. (www.fao.org)
3. King, R. 1977. Land reform – A world survey. G Bell & Sons LTD, London, 446 pp.
4. Lê Hồng Nhu. 1999. Rice production in Viet Nam and the policies to promote its development. In Proceedings of the 19th Session of the IRC, Cairo, Egypt, 7-9 September 1998. FAO, Rome, p 162-165.
5. Nguyễn Sinh Cúc. 1995. Nông Nghiệp Việt Nam (1945-1995). NXB Thống Kê, Hà Nội, 64 tr.
6. Tổng Cục Thống Kê (GSO). 2008. Tài sản quốc gia 2008. GSO 2008 (www.gso.gov.vn/).
7. Tổng Cục Thống Kê (GSO). 2009 & 2015. Nông, lâm nghiệp và thủy sản 2009. GSO 2010 (www.gso.gov.vn/).
8. Trần Thị Út and Hossain, M. 2000. Effects of improved technologies on rice production and impact distribution and poverty alleviation: Case study of Viet Nam. Paper presented at the International Rice Research Conference, 31-3 to 3-4-2000. IRRI, Los Banos.
9. Trần Văn Đạt. 2002. Tiến trình phát triển sản xuất lúa gạo tại Việt Nam - Từ thời nguyên thủy đến hiện đại. NXB Nông Nghiệp, Sài Gòn, 315 tr.
10. Trần Văn Đạt. 2005. Sản xuất lúa gạo trên thế giới: Hiện trạng và khuynh hướng phát triển trong thế kỷ 21. NXB Nông Nghiệp, Hà Nội, p 280-347.
11. Trần Văn Đạt. 2010. Lịch sử trồng lúa Việt Nam tại www.tranvandat.com. (Mục Publication)
12. Trần Văn Hữu. 1927. La riziculture en Cochinchine. Agence Économique de l’Indochine, Paris, France, pp 31.
13. Võ Tòng Xuân. 1995. History of Vietnam-IRRI cooperation. Vietnam and IRRI: A Partnership in rice research, IRRI and Ministry of Agriculture and Food Industry, IRRI, Philippines, p. 21-29.
14. Vũ Tuyến Hoàng. 1986. La riziculture au Viet Nam. Bulletin de la Commision internationale du riz. FAO, Rome, 35 (2): 8-17.
15. WRI (World Resources Institute). 2007. GDP: Percent GDP from agriculture. Earth Trends: Economics, Business, and the Environment, http://earthstrends.wri.org/searchable_db/