BỆNH SỐT RÉT
Bệnh sốt rét do ký sinh trùng nhóm Plasmodium, lây truyền từ người này sang người khác qua trung gian con muỗi khi chích vào da. Nhóm này có 5 loại:
1-Plasmodium falciparum
2-Plasmodium vivax
3-Plasmodium ovale
4-Plasmodium malariae
5- Plasmodium knowlesi
Bệnh này phổ biến ở các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới của châu Mỹ, châu Á và châu Phi. Mỗi năm có khoảng 515 triệu người mắc bệnh, từ 1 đến 3 triệu người tử vong mà đa số là trẻ em ở khu vực phía nam sa mạc Sahara, châu Phi. 90% số ca tử vong xảy ra tại đây. Bệnh gây ra bởi loại 1 và 2 rất nguy hiểm, loại 3 và 4 ít tử vong hơn. Riêng loài 5 phổ biến ở Đông Nam Á, gây bệnh sốt rét ở khỉ nhưng cũng có thể gây nhiễm trùng nặng ở người.
Triệu chứng của sốt rét đặc biệt bắt đầu từ ngày thứ 8 đến 25 sau khi nhiễm; tuy nhiên, các triệu chứng có thể thể hiện muộn hơn đối với những người đã sử dụng thuốc chống sốt rét. Biểu hiện ban đầu các triệu chứng giống cảm cúm như nhức đầu, sốt, lạnh đột ngột sau đó run rẩy và sau đó sốt và đổ mồ hôi. Xảy ra cứ mỗi hai ngày đối với loại 2 và loại 3. Cứ ba ngày đối với loại 4. Loại 1 có thể gây sốt tái phát mỗi 36-48 giờ hoặc sốt ít rõ ràng hơn và gần như liên tục. Lâu ngày thể hiện các triệu chứng thần kinh như hành vi bất thường, run giật nhãn cầu, con ngươi đứng tròng, mắt trợn trắng hoặc hôn mê…
Chu kỳ sinh trưởng của Plasmodium, do một con muỗi Anopheles cái làm trung gian truyền bệnh, truyền một dạng lây nhiễm di động được gọi là thoi trùng vào động vật có xương sống như con người, hoạt động này là một khuếch tán truyền bệnh. Một di sinh trùng (sporozoite) truyền vào máu đến tế bào gan (hepatocyte), tại đây chúng sinh sản (schizogony), tạo ra hàng ngàn mầm bệnh (merozoite), rồi sinh sôi phá vỡ tế bào gan tràn vào hồng cầu một sinh ra 8 đến 24 merozoite lây nhiễm bắt đầu, tại đây chúng phát triển thành các thể hình tròn trophozoite và schizont đến lượt chúng tạo ra nhiều merozoite hơn nữa. Giao bào cũng được tạo ra, chúng được muỗi lấy đi, sẽ lây nhiễm côn trùng và tiếp tục lây từ người này sang người này sang người khác.
Nên một người nhiễm bệnh sốt rét do muỗi truyền, qua truyền máu, vào thai nhi trong lòng mẹ, tiêm chích ma túy dùng chung kim… Bệnh học chia ra 2 mức độ:
- Sốt rét thông thường tiên khởi chưa có biến chứng.
- Sốt rét trầm trọng sinh ra biến chứng nặng.
Khi điều trị đúng cách, người bị sốt rét thường có thể được trông đợi là hồi phục hoàn toàn. Tuy nhiên, bệnh sốt rét nặng có thể tiến triển cực kỳ nhanh và gây… chỉ trong vòng vài giờ hoặc vài ngày. Đối với hầu hết các ca bệnh nặng, tỉ lệ tử vong có thể lên đến 20%, thậm chí phải chăm sóc và điều trị đặc biệt. Thời gian càng lâu, sự suy yếu phát triển đã được ghi nhận ở trẻ em khi phải chịu đực những cơn sốt rét nặng.
Ở trẻ thơ, bệnh sốt rét gây chứng mất máu trong thời kỳ phát triển não nhanh chóng, và cũng gây tổn thương não trực tiếp từ sốt rét thể não. Những người sống sót do sốt rét não có nguy cơ gia tăng suy giãm thần kinh và nhận thức, rối loạn hành vi, và động kinh.
WHO cho biết rằng trong năm 2010 đã có 219 triệu người bị bệnh sốt rét trên toàn thế giới, làm 660.000 người chầu trời. Nhiều nhất được ghi nhận ở vùng hạ Saharan châu Phi với sốt rét ở mẹ liên quan đến 200.000 trường hợp trẻ sơ sinh chết mỗi năm. Có khoảng 10.000 ca sốt rét mỗi năm ở Tây Âu, có khoảng 1.500 ở Hoa Kỳ. Khoảng 900 người chết do bệnh sốt rét ở châu Âu trong những năm 1993-2003. Cả tỉ lệ mắc bệnh toàn cầu và tỉ lệ tử vong đã giảm trong những năm gần đây. Theo WHO, các ca tử vong vì sốt rét trong năm 2010 đã giảm hơn 3 lần từ năm 2000, chủ yếu là do việc sử dụng mùng chống muỗi và các liệu pháp điều trị kết hợp với thuốc trị bệnh sốt rét là artemisinin.
Phân bố địa lý của bệnh sốt rét ở các vùng nước tù đọng là nơi ấu trùng muỗi phát triển thuận lợi, cũng như cung cấp môi trường tốt cho chúng sinh sôi nảy nở. Sốt rét phổ biến ở vùng nông thôn hơn so với thành thị. Ví dụ, nhiều thành phố của tiểu vùng Mekong ở Đông Nam Á chủ yếu là không có sốt rét, nhưng bệnh lại phổ biến ở những vùng nông thôn và ven rừng. Ngược lại, sốt rét ở châu Phi có mặt ở cả thành thị và nông thôn, mặc dù nguy cơ thấp hơn ở các thành phố.
Khoa học đang nghiên cứu một loại thuốc chủng ngừa hiệu quả đối với bệnh sốt rét. SPf66 đã được thử nghiệm trong thập niên 1990, nhưng các thử nghiệm cho thấy rằng nó có hiệu quả chưa đủ. Thuốc chủng ngừa RTSS đang được trông đợi cấp phép sử dụng năm 2015.
BS Trần Văn Diên ngày 04/11/2015