25/10/2015
PHÁT TRIỂN
TRỒNG LÚA NƯỚC THỜI CỔ ĐẠI
(Hùng Vương - An Dương Vương:
4.000 - 2.180 năm trước)
TS. Trần Văn Đạt
PHẦN II: Phát triển trồng lúa nước
Trong thời Cổ Đại cách nay khoảng 4.000 năm, nghề trồng lúa nước ngày càng bành trướng lớn mạnh, có thể chia làm 2 giai đoạn: thời kỳ tiền bán và hậu bán thời đại Hùng Vương. Trong nửa trước thời đại Hùng Vương, người Văn Lang trồng lúa nước sơ kỳ song song với trồng lúa rẫy khi nước biển rút dần; nhưng nghề lúa rẫy vẫn còn chiếm ưu thế. Đến văn hóa Gò Mun, với phát triển công cụ sản xuất đồng thau, nghề trồng lúa nước đã vượt lên ngang hàng hoặc hơn ngành lúa rẫy. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện một hầm lúa thối nát, chứng tỏ chủ nhân sản xuất dư thừa, gia đình cư dân no ấm. Ngành trồng lúa nước càng phát triển đời sống người Văn Lang thêm phồn thịnh sung túc. Nền văn hóa Đông Sơn và văn minh Lúa Nước xuất hiện gần đồng bộ từ đó.
1. Nền Văn Hóa Đông Sơn (cách nay 2.800 - 1.800 năm)
Nền văn hóa Đông Sơn là sự tiếp nối với văn hóa Gò Mun và kéo dài khoảng 1.000 năm (Viện Khảo Cổ Học, 1999).
Di tích Đông Sơn được khai quật vào năm 1924 bởi ông L. Pajot. Di tích này thuộc làng Đông Sơn, phường Hàm Rồng, thành phố Thanh Hóa, nằm ở hữu ngạn sông Mã. Nền văn hóa bao gồm các tỉnh miền núi, đồng bằng và ven biển của Miền Bắc đến Quảng Bình, nhưng địa bàn gốc là đồng bằng và trung du Miền Bắc (vùng sông Hồng) và vùng bắc Trung Phần (vùng sông Mã). Nền văn hóa Đông Sơn đã phát triển lâu dài từ thế kỷ VIII-VII tr CN đến thế kỷ I - II sau CN. Các di tích tìm thấy ở nhiều địa điểm, nhưng thường phân bố trên các vùng đất cao, chân đồi, ven sông và ven suối. Tầng văn hóa trung bình dày 0,60-1,00 m. Ngoài các di chỉ cư trú riêng biệt, còn có loại di tích hỗn hợp của cả di chỉ cư trú và khu mộ táng.
Các đặc tính của nền văn hóa Đông Sơn được tìm thấy ở các loại đồ đồng, đồ sắt, đồ đá, đồ thủy tinh, đồ gốm, đồ xương và đồ tre gỗ. Đồ đồng chiếm một số lượng lớn, đặc biệt công cụ ảnh hưởng đến phát triển sản xuất nông nghiệp lúa.
Đồ đồng: Nền văn hóa Đông Sơn nổi tiếng nhứt là bộ đồ đồng rất phong phú về số lượng, hình dạng, trình độ kỹ thuật chế tạo và năng khiếu thẩm mỹ của người dân. Nhạc cụ của nền văn hóa này nổi bật nhứt là trống đồng và chuông. Trống đồng là loại di vật điển hình của nền văn hóa Đông Sơn, nay gọi là trống Đông Sơn. Đến nay đã phát hiện khoảng 150 trống lớn và gần 100 trống minh khí ở miền Bắc khu vực văn hóa Đông Sơn và các nơi khác ở Việt Nam như Thừa Thiên - Huế, Gia Rai - Kontum, Quảng Nam - Đà Nẵng, Bình Định, Nha Trang, Bình Dương, Vũng Tàu, Đồng Nai, Kiên Giang... Trống Đông Sơn có địa bàn phân phối rộng không những ở Việt Nam, còn tìm thấy ở nhiều nước Đông Nam Á như: Lào, Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Indonesia và miền nam Trung Quốc, chứng tỏ Việt Nam có giao lưu thương mại khá rộng lớn lúc bấy giờ. Trống đồng được các nhà khảo cổ học phân ra 5 loại A,B,C,D và Đ, căn cứ vào kích thước, dáng cân đối và hoa văn. Ngoài ra, còn vũ khí, công cụ sản xuất và đồ trang sức bằng đồng.
Nhóm công cụ sản xuất bằng đồng thau của văn hóa Đông Sơn khá phong phú, trong đó rìu chiếm một số lượng quan trọng (Hình 7 và 9) (Viện Khảo Cổ Học, 1999).
· Rìu: Đặc điểm chung là rìu có họng để tra cán, gồm có 2 loại rìu cân xứng và rìu không cân xứng: rìu xéo (không cân xứng), rìu hình hia gót tròn, gót vuông, rìu xoè cân, rìu có vai.
· Lưỡi cày đồng tiêu biểu cho ngành nông nghiệp. Cho tới nay có gần 200 hiện vật, gồm có 4 loại: lưỡi cày hình tam giác (còn hiếm), lưỡi cày hình tim (nhiều nhứt chiếm 50%), lưỡi cày hình cánh bướm hay chân vịt và lưỡi cày có vai ngang hay vai nhọn (ít) (Hình 8 ).
· Cuốc đồng: Chiếc cuốc lớn ở Bãi Phủ (Đông Hà, Thanh Hóa) có kích thước: dài 16,5 cm, rộng 11,7 cm. Kiểu cuốc hình chữ U tùy theo cách lắp cán với lưỡi hình cung hoặc hình tam giác. Kiểu cuốc có vai và phần họng tra cán ăn sâu xuống lưỡi. Kiểu cuốc có họng tra cán, lưỡi gồm có hình tam giác, hoặc lưỡi hình cung.
· Xẻng: công cụ này được phát hiện còn rất ít. Họng xẻng có cấu tạo giống như họng lưỡi cày hình tim. Có xẻng không có họng mà liền với lưỡi thành một khối.
· Nhóm thuổng hay mai thường được xếp vào nhóm rìu có vai cân xứng, nhưng chắc và khoẻ hơn lưỡi rìu, rất thích hợp cho đào đất hay dầm đất.
· Nhóm công cụ thu hoạch: Gồm có lưỡi dao gặt hay còn gọi là nhíp được dùng để gặt lúa.
· Ngoài ra, nhóm công cụ sản xuất còn có nhóm dùi, đục, dũa, lưỡi câu, kim, đinh ba, đinh hai, móc, dao, dao khắc.
Đa số các công cụ sản xuất này cho biết ngành nông nghiệp lúa đã tiến bộ nhiều trong thời đại Đông Sơn. Cư dân Việt đã tích tụ được nhiều kinh nghiệm trồng lúa nước, biết dùng cuốc cày bằng đồng và sắt để nâng hiệu năng sản xuất, biết dùng trâu để thay thế phần nào sức lao động, có nhà kho chứa thóc và biết giã gạo (hoa văn trống đồng) thay vì dùng bàn nghiền vì sản xuất lúa đã quá nhiều.
Ngoài ra, đồ đồng còn là dụng cụ sinh hoạt (thạp, thố, bình, khai, đĩa, chậu…), đồ trang sức (vòng tai, vòng tay, trâm cài, khóa thắt lưng, tượng đồng…), vũ khí (giáo, lao, mũi tên, dao găm), nhạc cụ và tượng đồng.
Hình 8: Lưỡi cày bằng đồng vào thời kỳ văn hóa Đông Sơn (2.500-3.000 năm trước) (Ảnh: N. K. Quỳnh)
Hình 9: Đồ đồng văn hóa Đông Sơn
1: Rìu bôn; 2: rìu hình chữ nhựt; 3-8: rìu xoè cân; 9: rìu xéo hình thuyền; 10,11: rìu xéo hình dao xén; 12,13: rìu xéo gót vuông; 14,15: đục; 16: dùi; 17: lưỡi câu; 18: nhíp; 19: dũa; 20: cuốc chữ U; 21: xẻng; 22: thuổng; 23: lưỡi cày (Viện Khảo Cổ Học, 1999)
Đồ sắt trong văn hóa Đông Sơn là công cụ và vũ khí. Công cụ sản xuất gồm lưỡi cuốc chiếm số lượng nhiều nhứt. Lưỡi cuốc là công cụ làm đất, gồm có 2 loại: kiểu lưỡi cuốc có vai, có họng tra cán gần hình chữ nhựt, và kiểu cuốc có họng tra cán hình chữ U, lưỡi xoè rộng hình cung. Ngoài ra, còn có rìu để chặt cây, liềm dùng thu hoạch. Ở Gò ChiềnVậy, mẫu than để xác định niên đại nằm sâu dưới lớp đất có cuốc sắt với niên đại 2.350+100 cách ngày nay (Viện Khảo Cổ Học, 1999)
Đồ đá gồm có hai nhóm công cụ sản xuất và đồ trang sức (vòng tay, vòng tai). Số lượng công cụ sản xuất còn rất ít, chủ yếu rìu (rìu tứ giác và rìu có vai), bôn. Ngoài ra, còn có hòn kê, hòn ghè, cối, chày, bàn mài với các kiểu gần giống như thời kỳ tiền Đông Sơn.
Ngoài ra, còn có đồ thủy tinh được tìm thấy trong các ngôi mộ niên đại muộn, như hạt chuổi màu xanh, vòng tai, vòng tay có màu xanh thẫm; và các đồ gốm như bình, chõ, chậu, bát, chì lưới, dọi xe.
2. Nền văn minh lúa nước
Thời đại Hùng Vương khởi sự từ các giai đoạn phát triển sơ kỳ thời đại đồng thau đến sơ kỳ thời đại sắt, nghĩa là từ thiên kỷ II đến thế kỷ III trước CN (khoảng 4.000-2.258 năm), và là thời kỳ chuyển biến quan trọng để tiến đến nền văn minh cổ xưa và một nước mới thành lập của dân tộc Việt.
● Địa lý và tổ chức xã hội sơ lược: Nước Văn Lang của thời đại Hùng Vương gồm có vùng Bắc Việt, bắc Trung Việt và một phần phía nam tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Quốc. Kinh đô đặt ở Phong Châu, tỉnh Phú Thọ ngày trước (Nguyễn Phan Quang & Võ Xuân Đàn, 2000 và Văn Tấn và cộng sự viên, 2008). Nước có 15 bộ (bộ lạc cũ) và có tổ chức xã hội tương đối rõ rệt như Lạc Vương (vua), Lạc Hầu (văn), Lạc Tướng (võ), Quan Lang (con trai vua), Mỵ Nương (con gái vua), Bố Chính (quan lại), ở làng xã có chế độ tù trưởng và mỗi gia đình có chế độ gia tộc, gia trưởng. Người dân gọi là Lạc Dân.
● Nghề nông nghiệp lúa: Vào thời đại Hùng Vương, qua nền văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu và Gò Mun, nước Văn Lang có 3 loại ruộng: ruộng đất cao hay nương rẫy, ruộng thung lũng và ruộng phù sa ven sông rạch (đồng bằng); trong đó ruộng phù sa ngày càng phổ biến vì cho năng suất cao hơn. Nông dân vẫn tiếp tục làm nương rẫy truyền thống từ thời tiền sử cho đến khi biển lùi, họ từ các ruộng cao theo dòng nước tràn xuống khai thác các thung lũng, đầm lầy có nước quanh năm để trồng lúa. Cư dân dùng phương pháp “thủy nậu” để cấy lúa, nghĩa là họ dùng chân giẫm cỏ xuống bùn trước khi cấy. Lề lối thủy nậu còn được thực hành ở các ruộng biền sâu ở đồng bằng sông Cửu Long dưới thời Pháp thuộc. Sau cùng, họ đến định cư trên các vùng đất cao ven sông rạch, biển và khai phá rừng rậm để trồng trọt sinh sống. Nghề trồng lúa nước phát triển từ đó.
Ngoài ra, cư dân còn canh tác một số hoa màu khác như khoai, đậu, dưa hấu, dâu tầm, trầu cau..., xen kẻ với nghề chăn nuôi, đánh cá, săn bắn, nghề gốm, nghề luyện kim, thủ công nghệ khác... Ngành nông nghiệp lúa nước tiến bộ nhanh vào thời đại này, mặc dù đòi hỏi nhiều sức lao động so với nghề nương rẫy. Đó là nhờ cư dân Việt sớm biết chăn nuôi, sử dụng sức kéo trâu bò từ nền văn hóa Đa Bút, Phùng Nguyên, có kinh nghiệm về thủy triều lên xuống, về khí hậu hai mùa mưa nắng mỗi năm, và đặc biệt xuất hiện các công cụ sản xuất bằng kim loại.
● Nghề trồng lúa nước ngày càng trở nên quan trọng vì lúa nước cho năng suất cao gấp 2,3 lần lúa rẫy, đảm bảo thời kỳ thu hoạch nhiều hơn nhờ yếu tố nước để đáp ứng áp lực dân số gia tăng. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu với nền văn hóa Phùng Nguyên, dụng cụ sản xuất bằng đá vẫn còn chiếm vị thế quan trọng, chứng minh nghề trồng lúa còn thô sơ của người Việt cổ trong những tháng ngày mới lập quốc. Nông dân đã làm quen với trồng lúa theo mực nước sông lên xuống, lúa gạo là thức ăn căn bản của dân tộc Việt bấy giờ. Sự kiện này được thể hiện qua truyền thuyết như sau: “Ban đầu, quốc dân ăn mặc chưa đủ, phải lấy vỏ cây làm áo mặc, dệt cỏ ống làm chiếu nằm; lấy gạo ngâm làm rượu, lấy cây quang lang (bột báng), cây soa-đồng làm bánh; lấy cầm thú, cá tôm làm nước mắm, lấy rễ gừng làm muối (?); lấy dao cày, lấy nước cấy: đất trồng nhiều gạo nếp, lấy ống tre thổi cơm; gác cây làm nhà để tránh nạn hổ-lang; cắt ngắn đầu tóc để tiện vào rừng núi, con đẻ ra lót lá chuối cho nằm; nhà có người chết thì giã gạo để cho hàng xóm nghe mà chạy đến cứu giúp; trai gái cưới nhau trước hết lấy muối làm lễ hỏi, rồi sau mới giết trâu dê làm lễ thành hôn, đem cơm nếp vào trong phòng cùng ăn với nhau cho hết, rồi sau mới thương thông; lúc bấy giờ chưa có trầu cau nên phải thế.” “Lạc Long Quân dạy dân việc cày cấy làm ruộng”, “…phát nương đổ rẫy. Đất sản xuất được nhiều gạo nếp”. (Lĩnh Nam Chích Quái, 1960).
Trong sơ kỳ thời đại Hùng Vương, cư dân trồng lúa nước theo lề lối du canh lâu đời của lúa rẫy; nghĩa là họ vẫn dùng phương pháp gieo thẳng và sau ít năm khai thác, họ di chuyển tìm nơi khác trồng trọt vì ruộng đất kém phì nhiêu, như còn thấy bộ lạc Bambara thực hành ở miền Tây Phi Châu (Guinea, Guinea-Bissau, Senegal...) đối với trồng lúa ngập mặn ven biển và sông rạch. Sau nhiều năm kinh nghiệm, họ biết lợi dụng thủy triều lên xuống để đem phù sa vào ruộng lúa và chăm sóc vụ mùa chu đáo hơn; nên không còn thay đổi đất trồng nữa và các thữa ruộng trở nên cố định.
Đến hậu bán thời đại Hùng Vương trong nền văn hóa Đông Sơn, dân tộc Việt phần lớn sống tại những xóm làng ven các thung lũng, dọc theo sông rạch, bờ biển và nghề trồng lúa nước (nếp) trở nên phồn thinh. Họ đã biết sử dụng phương pháp cấy lúa để chủ động trồng trọt sau nhiều năm kinh nghiệm trồng lúa với điều kiện nước lũ và khí hậu gió mùa mỗi năm. Công việc cấy lúa được nói đến trong Lĩnh Nam Chích Quái nêu trên và “Lạc Long Quân dạy dân cày cấy...”, “... lấy dao cày, lấy nước cấy”. Nhà khảo cổ học Maspéro (1918) nghiên cứu tài liệu Trung Quốc cho rằng dân tộc Lạc Việt biết làm lúa hai vụ, biết cấy lúa, làm thủy lợi... trước khi Hán tộc xâm lăng.
Phương pháp cấy lúa có khả năng giúp cho cây lúa có xác suất sinh tồn cao hơn gieo thẳng khi mực nước lên xuống, như từng thấy kinh nghiệm trồng lúa sạ (nổi) và lúa cấy một hoặc hai lần ở đồng bằng sông Cửu Long. Vào thời kỳ này, những kinh nghiệm sống đã giúp cho nông dân hoàn hảo lề lối canh tác để sản xuất lương thực nhiều hơn. Từ cách gieo sạ thẳng nông dân đã chuyển qua phương pháp làm mạ vào đầu mùa mưa để cấy vào ruộng ngập nước, chủ yếu giúp cây lúa cao, lớn có khả năng chịu đựng mực nước sông dâng cao trong khí hậu gió mùa. Do đó, người Việt đã biết cấy lúa vào thời mới dựng nước, cách nay ít nhất 3.000 năm.
Ngành trồng lúa nước đã trở thành chủ lực của nền nông nghiệp bản xứ. Sử Trung Quốc ghi rằng: “Ngày xưa, Giao Chỉ khi chưa chia thành quận, huyện, ruộng đất có ruộng lạc, ruộng đó theo nước triều lên xuống, dân khẩn ruộng mà ăn nên gọi là dân lạc” (Hình 10). Như thế, ruộng lúa đã cố định, được đắp bờ đê ngăn giữ nước trồng lúa. Chuyện cổ tích Sơn Tinh Thủy Tinh vào thời Hùng Vương có thể tượng trưng cho công tác đắp đập đê để ngăn ngừa lụt ở Miền Bắc. An Nam chí lược có ghi chép cư dân Văn Lang “tưới ruộng theo nước triều lên xuống”. Hoặc vết tích một đoạn đê cổ của thành Cổ Loa trước thời Bắc thuộc cho người ta nghĩ rằng người dân tại một số vùng đã biết đắp bờ giữ nước, tháo nước bảo vệ cây lúa để tăng gia sản xuất. Căn cứ vào tư liệu Trung Quốc, nhà khảo cổ học Maspéro (1918) đã xác nhận dân tộc Văn Lang đã có một xã hội phát triển khá cao, họ biết làm lúa nước, làm thủy lợi... trước khi người Hán đến xâm lược.
Hình 10: Bút tích ruộng lạc và hai vụ lúa ở Giao Chỉ (Ảnh: N. K. Quỳnh)
● Vụ lúa: Có lẽ dân tộc Việt vào hậu kỳ thời đại Hùng Vương đã biết trồng lúa 2 vụ mỗi năm khi có được giống “lúa Chiêm” của nước Chiêm Thành, vì giống lúa này có thể trồng bất cứ lúc nào trong năm, nhờ không chịu ảnh hưởng quang cảm (số giờ ánh sáng trong ngày). Mặc dù theo sử Trung Hoa, nước Chiêm Thành mới thành lập năm 192 sau CN, nhưng trước đó vùng đất này là một trong 15 Bộ Tộc của nước Văn Lang, cho nên lúa Chiêm có thể được người Giao Chỉ biết đến truớc CN. Vụ Chiêm được trồng từ tháng 11 đến tháng giêng, gặt tháng 5; trong khi lúa Mùa trồng tháng 6 gặt tháng 11. Trong Di vật chí có ghi: “Lúa Giao Chỉ mỗi năm trồng hai lần, về mùa hạ và mùa đông” (Hình 10). Ông Maspéro (1918) và Bùi Huy Đáp (1980) đã ghi nhận dân tộc Việt trồng lúa hai mùa trước CN.
● Các loại lúa: Trong thời đại Hùng Vương có ít nhứt 3 loại lúa trồng ở 3 vùng sinh thái khác nhau: lúa rẫy trên đất cao, lúa thung lũng dưới chân đồi núi và lúa đất phù sa ở các đồng bằng. Mỗi loại lúa này có 2 thứ lúa tẻ còn ít phổ biến và lúa nếp rất thông dụng của cư dân từ đồi núi xuống thung lũng và đồng bằng. Theo Lĩnh Nam Chích Quái, vào thời Hùng Vương, “Đất sản xuất nhiều gạo nếp”. Ngoài ra, còn có hai vụ lúa mỗi năm: vụ Chiêm và vụ Mùa, nên mỗi vụ có nhiều giống lúa khác nhau. Do đó, trong cuối thời đại Hùng Vương, Viêt Nam có trên trăm giống lúa được nông dân trồng. Ở di chỉ văn hóa Đồng Đậu, các nhà khảo cổ học tìm được nhiều hạt gạo cháy có hình dáng khác nhau cách nay khoảng 3.000 năm: hình bầu, tròn, dài, thon, thon dài, bầu dài, tròn ngắn... (Đào Thế Tuấn, 1988); cho biết nơi đây cư dân đã trồng nhiều giống lúa khác nhau.
● Công cụ sản xuất (Hình 8 và 9, xem thêm nền văn hóa Đông Sơn): Đến đầu thiên kỷ II trước CN, công cụ đá, chủ yếu rìu đá vẫn còn phổ biến rộng rãi trong nền văn hóa Phùng Nguyên dù kỹ thuật luyện kim đã bắt đầu. Đến giai đoạn Đồng Đậu và Gò Mun, các dụng cụ bằng đá được thay thế dần với dụng cụ đồng, thau, rồi công cụ sắt xuất hiện ở hậu kỳ thời đại Hùng Vương. Các chiếc rìu đá, rìu đồng được cư dân sử dụng để chặt cây, làm đất trồng trọt, mặc dù các nơi khác đã dùng cuốc đá từ lâu.
Càng về sau trong hậu kỳ thời đại Hùng Vương, các nhà khảo cổ tìm thấy lưỡi cày đồng (Hình và cuốc, mai thuổng bằng sắt với số lượng lớn, trong khi các công cụ sản xuất bằng đá giảm dần. Các loại cày đồng với lưỡi hình tim và hình cánh bướm thông dụng hơn hết để cày ruộng. Các liềm đồng cũng được tìm thấy với số lượng khá lớn dùng để gặt lúa.
● Chăn nuôi: Cư dân đất Việt đã biết đến nghề chăn nuôi khá lâu. Trong di chỉ Đa Bút (khoảng 6.000-5.000 năm), các nhà khảo cổ tìm thấy xương trâu, lợn và suy đoán cư dân biết thuần dưỡng động vật (Patte 1932 và Vũ Thế Long, 1979). Theo Nguyễn Phan Quang và Võ Xuân Đàn (2000), cư dân Phùng Nguyên đã biết chăn nuôi vì trong các di chỉ và mộ táng có những xương răng chó, lợn, trâu, bò... Điều này chứng minh rằng người Việt biết dùng sức kéo trâu bò để làm ruộng, biết cày cấy trước thời Bắc thuộc chứ không phải như đã ghi trong sử sách Trung Quốc (Hậu Hán Thư và trong Thủy Kinh Chú trong Bùi Thiết, 2000) cũng như các sách sử Việt viết theo tài liệu của Trung Hoa rằng: Thái thú Nhậm Diên dạy dân Cửu Chân cày bừa. Có thể người Trung Hoa đem các chiếc cày, cuốc bằng sắt vào xứ Giao Chỉ và Cửu Chân vào buổi đầu Bắc thuộc (Phạm Văn Sơn, 1960) giúp cho việc làm đất ruộng mau lẹ và cày sâu hơn. Tuy nhiên, dân tộc Việt đã biết sử dụng kim loại sắt vào thời buổi đầu lập quốc, với câu chuyện cổ tích Thánh Gióng vào đời vua Hùng Vương thứ ba, khoảng 700-600 năm trước CN.
● Ngoài ra, nghề đánh cá trong các sông rạch, ven biển đã xuất hiện từ nền văn hóa Đa Bút-Quỳnh Văn đến Phùng Nguyên và các nền văn hóa tiếp theo. Các nhà khảo cổ học tìm thấy vỏ sò ốc, xương cá, răng cá, chì lưới, lưỡi câu, mãnh gốm có hình cá... trong nhiều di chỉ khảo cổ khai quật. Trong thời hậu kỳ Hùng Vương, đặc biệt trong nền văn hóa Đông Sơn, nghề đánh cá lớn mạnh hơn, cư dân biết đóng những chiếc ghe, thuyền lớn để đi trên sông, biển, được ghi khắc trên các trống đồng Đông Sơn.
Trong giai đoạn hậu thời kỳ Đồng Thau đến thời đại Đồ Sắt, dân tộc Việt đã nắm vững một số phương pháp canh tác tiến bộ của ngành làm ruộng nước và làm nương rẫy, nhằm khai thác đồng bằng sông Hồng, sông Mã và sông Cả ở Bắc Việt và Trung Việt. Đồng thời cư dân ở Miền Đông Nam Bộ cũng biết trồng lúa rẫy trên đất cao và lúa nước ở đất thấp để sinh sống trong nền nông nghiệp dùng cuốc. Hoạt động săn bắt và hái lượm vẫn còn hiện diện, nhưng đã trở thành thứ yếu, chỉ còn thấy ở các vùng đồi núi, rừng sâu.
Một cách tổng thể, trong thời đại Hùng Vương ngành sản xuất lúa gạo nước Văn Lang có 5 hiện tượng biến đổi lớn xảy ra, đẫn đến nền văn minh lúa nước một thời rực rỡ, như sau:
1) Nền nông nghiệp dùng rìu trong thời tiền sử được chuyển qua nông nghiệp dùng cuốc cày;
2) Công cụ sản xuất bằng đồ đá mài chuyển qua công cụ sản xuất bằng đồng, thau và sắt;
3) Từ nghề làm nương rẫy du canh chuyển qua nghề trồng lúa nước cố định;
4) Từ trồng lúa gieo thẳng trong thời tiền sử chuyển qua cấy lúa trong thời đại Hùng Vương. (Bây giờ ngược lại, từ cấy lúa chuyển qua gieo thẳng); và
5) Cư dân di chuyển từ những vùng đất cao thưa thớt xuống sống tập trung làng ấp ở các thung lũng và nhứt là đồng bằng do hiện tượng biển thoái cuối cùng.
Sau đây là bảng tóm lược hoạt động sản xuất lúa rẫy và lúa nước trong thời đại Hùng Vương (Bảng 1):
Hình 11: Hoa văn giã gạo trên trống đồng Đông Sơn
-
Bảng 1: Hoạt động sản xuất của ngành trồng lúa rẫy và lúa nước trong thời đại Hùng Vương
Hoạt động sản xuất
|
Lúa rẫy
|
Lúa nước
|
Dẫn chứng
|
Vụ lúa
|
Một vụ vào mùa mưa
|
Một vụ Mùa vào mùa mưa. Vào đầu CN có thêm vụ Chiêm (hay Đông-xuân)
|
- Di Vật Chí
- Maspéro, 1918
|
Loại lúa
|
Lúa nếp
|
Lúa nếp chính và lúa tẻ còn ít
|
Truyện cổ tích Bánh chưng Bánh dày, Hùng Vương thứ 6 (khoảng 2.500 năm)
|
Làm đất
|
Chặt cây nhỏ, đốt cây (“đao canh hỏa chủng”)
|
- Đốt cỏ và ngâm ruộng (“hỏa canh thủy nậu”), giẫm chân chôn cỏ;
- Cày do trâu kéo hoặc sức người
|
- Trong Bùi Huy Đáp (1980)
- Nguyễn Phan Quang và Võ Xuân Đàn, 2000)
- Viện Khảo Cổ Học (1998)
|
Gieo hạt
|
Chọc lỗ, gieo hạt và lắp đất
|
-Gieo hạt khi có vài đám mưa đầu mùa (gieo thẳng)
- Làm nương mạ cho lúa cấy
|
- Lĩnh Nam Chích Quái
- Maspéro, 1918
|
Cấy
|
Không
|
Nhổ cây lúa ở nơi gieo sớm đem cấy vào nơi có nước sâu hơn do nước mưa hoặc do nước dâng lên từ sông rạch. Lúa cấy một hoặc hai, ba lần, nhằm giúp cây lúa chịu đựng nước sâu vào mùa mưa.
|
- Lĩnh Nam Chích Quái
- Maspéro, 1918
|
Chăm sóc
|
Không hoặc ít khi
|
Nhổ cỏ khi cần
|
|
Dùng phân
|
Nhờ mức phì nhiêu đất đai; do đó mỗi vài ba nămcanh tác cư dân tìm đất mới để trồng (du canh)
|
- Để gốc mạ thối thành phân
- Đem nước phù sa sông vào ruộng
- Phân tằm, phân bắc, phân trâu, nếu có
|
- Trong Bùi Huy Đáp (1980)
- Văn Tân et al, 2008
- Trong Bùi Huy Đáp (1980)
|
Tưới nước
|
Nhờ nước trời
|
- Đắp bờ, đê, đập, đào mương đẫn nước ở những nơi có thể làm.
|
- Thủy Kinh Chú
- Bùi Huy Đáp (1980)
- Văn Tân et al, 2008
- Maspéro, 1918
|
Thu hoạch
|
Bằng tay, nhiếp, dao, lưỡi liềm đá, đồng
|
Dao hái, nhíp, lưỡi liềm đồng, sắt
|
Viện khảo cổ học (1999)
|
Tồn trữ
|
Kho chứa, bồ lúa
|
Kho chứa, bồ lúa
|
Hoa văn trống đồng Đông Sơn
|
Biến chế lúa gạo, nếp
|
Cối và chày, bàn nghiền đá
|
Cối và chày
|
Hoa văn trống đồng Đông Sơn (Hình 11)
|
- Nấu cơm bằng ống tre
- Làm bánh chưng, bánh dày
- Nấu rượu
|
- Nấu cơm, xôi bằng nồi
- Làm bánh chưng, bánh dày
- Nấu rượu
|
- Lĩnh Nam Chích Quái
- Truyện cổ tích Bánh chưng Bánh dày, Hùng Vương thứ 6
- Lĩnh Nam Chích Quái
|
3. THỬ ƯỚC TÍNH NĂNG SUẤT VÀ DIỆN TÍCH TRỒNG LÚA THỜI CẬN CÔNG NGUYÊN
Đây chỉ là những ước tính sơ khởi để có được khái niệm về tình trạng trồng lúa trên đất Lạc Việt vào khoảng một vài thế kỷ trước và sau CN, dựa vào các con số ghi nhận trong các sử sách và kiến thức trồng lúa hiện nay. Dĩ nhiên, các số liệu ước tính sau đây cần được điều chỉnh lại với các thông tin phát hiện trong tương lai để được chính xác hơn.
Năng suất: Theo sách Đông Quan Hán Ký (trong Bùi Thiết, 2.000), khoảng thế kỷ thứ II tr. CN, ruộng ở quận Cửu Chân (vùng Thanh-Nghệ-Tĩnh) có 156 gốc lúa cho 768 bông. Từ đó, chúng ta có thể suy tính năng suất khoảng 465 kg/ha, với giả thuyết như sau: (i) khoảng cách trồng ước độ 40 x 40 cm, (ii) mỗi bông lúa trung bình có 60 hạt và (iii) trọng lượng 1000 hạt là 25 gram[1]. Năng suất lúa Cửu Chân khoảng 465 kg/ha. Nhưng đất Cửu Chân xấu hơn đồng bằng sông Hồng, nên trong điều kiện bình thường, lúa Giao Chỉ vào buổi đầu Bắc thuộc có năng suất bình quân ước lượng khoảng 0,54 t/ha hoặc hơn (từ 500 đến 800 kg/ha)?
Diện tích: Theo sách Quảng Đông Tân Ngữ (trong Bùi Thiết, 2000), Giao Chỉ có dân số 746.237 người, vào đời nhà Hán mỗi năm phải nộp thuế đến 13.600.000 hộc lúa (1 hộc lúa = 10 đấu, 1 đấu gần bằng 1kg). Từ đó, có thể suy tính như sau: Vì chế độ cai trị hà khắc, bóc lột của người Hán, thuế khóa rất nặng độ 70 - 80% số lượng sản xuất của dân Giao Chỉ, với 2 vụ lúa mỗi năm: vụ tháng 5 và vụ tháng 10 âm lịch. Cho nên, sản lượng thu hoạch của họ có thể ước tính độ 16.320.000 hộc lúa hay độ 163.200.000 kg lúa. Nếu năng suất bình quân độ 540 kg/ha, có thể suy ra dân Giao Chỉ lúc bấy giờ trồng 326.400 ha mỗi năm (2 vụ) hay diện tích đất ruộng độ 151.000 ha hoặc ít hơn (tùy theo năng suất)? Lúc bấy giờ, Giao Chỉ có 94.400 hộ, nên mỗi hộ có độ 1,6 ha.
4. KẾT LUẬN
Tóm lại, ngành trồng lúa Việt Nam đã tiến hóa lâu dài, chậm chạp theo trình độ văn minh dân tộc. Từ thời người Vượn cho đến 11.000 năm trước, thời nguyên thủy, con người chỉ biết săn bắt và hái lượm, chủ yếu cây có củ, đậu, cây ăn trái và sò ốc để sinh tồn và sống hòa đồng với thiên nhiên. Cho đến văn hóa Hòa Bình (10.000-8.000 năm), nền nông nghiệp sơ khai xuất hiện và cư dân bắt đầu hái lượm từng hạt lúa hoang và biết gỡ vỏ lúa để lấy hạt gạo có thêm lương thực. Đến nền văn hóa Bắc Sơn-Đa Bút (6.000-5.000 năm), cư dân đất Việt đã thu thập được nhiều kinh nghiệm trồng lúa để làm thế nào sản xuất nhiều thóc gạo. Họ đã bắt đầu thuần dưỡng cây lúa dại, lấy hạt lúa gieo trồng gần nơi cư trú, thường là rẫy nương hoặc thung lũng, đầm lầy. Các Bộ lạc trồng lúa xuất hiện trong thời kỳ này, đánh dấu sự thay đổi lớn, ảnh hưởng sâu đậm đến nền văn minh cư dân Việt, vì nghề trồng lúa đã mang đến đời sống ổn định. Sau đó sự xuất hiện kim loại như đồng, thau, sắt, gang và nghề luyện kim đã cung cấp cho nghề nông chủ yếu ngành trồng lúa các phương tiện sản xuất tinh xảo làm tăng sản xuất lương thực; tạo ra nền văn minh lúa nước rực rỡ và nền văn hóa Đông Sơn sáng ngời trong thời đại Hùng Vương.
Thời Đại Hùng Vương
(4.000-2.258 năm cách ngày nay)
Do thành tựu khảo cổ học, thời đại Hùng Vương khởi sự từ sơ kỳ thời đại Đồng Thau đến sơ kỳ thời đại Sắt cách nay khoảng 4.000 đến 2.258 năm, và là thời kỳ chuyển biến quan trọng để hình thành một nền văn minh xưa và một nước cổ sơ của người Văn Lang. Tuy nhiên, lịch sử đến nay chỉ ghi thời đại này có 18 đời Vua mà thôi (khoảng 700 năm tr. CN). Kinh đô đặt ở Phong Châu, tỉnh Phú Thọ ngày trước. Ngưòi Việt cổ của thời Hùng Vương có nguồn gốc đa tộc, mà hạt nhân của cộng đồng là người Tày cổ với sự tham gia của các nhóm tộc khác như Malayô, Môn-Khmer...(Viện Khảo cổ học, 1999 và 2002).
- Địa lý và xã hội: Nước Văn Lang của các đời vua Hùng gồm có vùng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ của nước ta ngày nay và một phần phía nam của Quảng Đông và Quảng Tây thuộc Trung Quốc và có 15 bộ tộc (Nguyễn Phan Quang & Võ Xuân Đàn, 2.000):
- Văn Lang (Bạch Hạt, Vĩnh Yên),
- Châu Diên (Sơn Tây),
- Phúc Lộc (Sơn Tây),
- Tân Hưng (Hưng Hóa, Tuyên Quang),
- Vũ Định (Thái Nguyên, Cao Bằng),
- Vũ Ninh (Bắc Ninh),
- Lục Hải (Lạng Sơn),
- Ninh Hải (Quảng Yên),
- Dương Tuyền (Hải Dương),
- Giao Chỉ (Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình),
- Cửu Chân (Thanh Hóa),
- Hoài Hoan (Nghệ An),
- Cửu Dương (Hà Tỉnh),
- Việt Thường (Quảng Bình, Quảng Trị),
- Bình Văn (?).
Đời sống kinh tế và văn hóa của dân tộc Lạc Việt vào thời Hùng Vương - An Dương Vương được mô tả như sau:
-“Đời sống kinh tế: Hoạt động chính của cư dân là săn bắt và hái lượm, nhưng nghề nông và chài lưới có những bước tiến đáng kể. Nghề nông chính là nghề trồng lúa nước ở các vùng trũng ven sông rạch và lúa rẫy trên đất cao, đồi núi; ngoài ra, họ còn trồng rau củ, trầu cau, dưa hấu (sử tích), khoai đậu, trồng dâu, nuôi tằm. Vua Hùng mỗi năm lên núi khấn vái, cầu trời cho được mùa lúa tốt; núi này về sau gọi là núi Hùng thuộc xã Hy Cương, huyện Phong Châu, Vĩnh Phú. Về nghề chài lưới, ngư dân có tục xâm mình để tránh những loài cá dữ như cá sấu, thuồn luồn. Tục lệ này kéo dài đến vua Trần Anh Tông (1293-1314) mớt dứt. Ngoài ra, họ còn có nghề luyện đồng thau, đúc nên những chiếc trống đồng khéo léo, nghề luyện sắt (di tích Gò Chiền Vậy) và nghề gốm.
- Đời sống văn hóa: Cư dân đời Hùng đã sống trên các nhà sàn, nhưng hãy còn thô sơ ở ven đồi, gò cao, chân núi; với nguyên liệu gỗ, tre, nứa, lá. Nhà có mái cong hình thuyền hoặc mái tròn và sàn thấp, đuôi mái sát đến sàn nhà. Cầu thang lên đặt trước nhà. Đầu tóc cắt ngắn ngang vai hay búi tóc lên đầu, chít khăn búi tóc cho nữ, hoặc búi đuôi sam và có vành khăn nằm ngang trán cho phụ nữ. Cách ăn mặc có sự khác biệt giữa nam và nữ. Nữ mặc váy, thân để trần, đi chân đất. Nam ở trần, mặc khố, đi chân đất. Trang phục lễ cho cả nam và nữ gồm có váy kết bằng lá hay lông vũ. Mũ kết bằng lông chim có cắm thêm bông lau ở phía trên hay phía trước (di tích trên trống đồng). Đồ trang sức của cả nam lẫn nữ gồm có vòng đeo tai, nhẫn, hạt chuỗi, vòng đeo tay.
Về thời đại Hùng Vương - An Dương Vương có rất nhiều truyền thuyết thần thoại được truyền miệng trong dân gian từ đời này đến đời khác mãi đến ngày nay, giúp cho ta hình dung phần nào đời sống của dân Lạc Việt. Đó là truyện Trầu Cau về tục lệ ăn trầu. Truyện Bánh Chưng Bánh Dày giải thích quan niệm trời tròn đất vuông cùng lễ lộc cúng tổ tiên vào ngày Tết. Truyện An Tiêm cho thấy con người biết trồng trọt. Truyện Sơn Tinh - Thủy Tinh cho thấy con người phải sống vất vả với nước lụt hàng năm ở quanh núi, nơi họ sinh sống và biết đắp đê đập. Mối tình thơ mộng của Tiên Dung và Chử Đồng Tử được thể hiện bằng hình ảnh đầm Dạ Trạch và bãi Tự Nhiên. Phù Đổng Thiên Vương hay Thánh Gióng nói lên tinh thần yêu nước của người dân khi có ngoại xâm và dân Lạc Việt biết sản xuất đồ sắt.”
|
TÀI LIỆU THAM KHẢO (Chung Phần I & II)
1. Bùi Huy Đáp. 1980. Các giống lúa Việt Nam. NXB Khoa Học và Kỹ Thuật, Hà Nội, 563 tr.
2. Bùi Huy Đáp. 1999. Một số vấn đề về cây lúa. NXB Nông Nghiệp, Hà Nội, 154 tr.
3. Bùi Thiết. 2000. Việt Nam Thời Cổ Xưa. NXB Thanh Niên, T.P. Hồ Chí Minh, 463 tr.
4. Đào Thế Tuấn. 1988. Về những hạt gạo cháy phát hiện ở Đồng Đậu (Vĩnh Phúc) năm 1984. Khảo Cổ Học, số 4, tr. 44-46.
5. Lĩnh Nam Chích Quái. 1960. NXB Khai Trí, Sài Gòn, 134 tr.
6. Maspéro, H. 1918. Le Royaume de Văn Lang. BEFEO, XVIII, fasc. 3, 1918.
7. Nguyễn Phan Quang & Võ Xuân Đàn, 2.000. Lịch sử Việt Nam - Từ nguồn gốc đến năm 1884. NXB T.P. Hồ Chí Minh, 479 tr.
8. Patte, E. 1932. Le Kjokkenmodding néolithique de Dabut et ses sépultures (province de Thanh Hóa, Indochine). Bulletin du Service Géologique d’Indochine (BSGI), vol. XIX, pt.3.
9. Phạm Văn Sơn. 1960. Việt sử toàn thư. NXB Thư Lâm Ấn Quán, Sài Gòn, 738 tr.
10. Văn Tấn, Nguyễn Linh, Lê Văn Lang, Nguyễn Đổng Chi và Hoàng Hưng. 2008. Thời Đại Hùng Vương: Lịch sử - văn hóa - kinh tế - chính trị - xã hội. NXB Văn Học, 275 trang.
11. Viện Khảo Cổ Học. 1998. Khảo cổ học Việt Nam, Tập I: Thời đại đá Việt Nam. NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 457 tr.
12. Viện Khảo Cổ Học. 1999. Khảo cổ học Việt Nam, Tập II: Thời đại kim khí Việt Nam. NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 551 tr.
13. Viện Khảo Cổ Học. 2002. Khảo cổ học Việt Nam, Tập III: Khảo cổ học lịch sử Việt Nam. NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 519 tr.
14. Vũ Thế Long. 1979. Di tích động vật ở di chỉ Đa Bút (Thanh Hóa). NPHM, Viện Khảo Cổ Học 1979.