8/11/2015
CỘNG ĐỒNG CHUYÊN GIA VIỆT NAM Ở SENEGAL 1980’S
Không biết cái duyên nào hay chó dắt đưa đẩy tui đến tận Phi Châu. Chó dắt có lẻ đúng hơn vì tui bị dắt đến một chỗ tận cùng mà người không dắt tới: Bakel Senegal.
Hình trên: Khôi- Boyer- Tuấn - Ni- Đức - Thiệu & gia đình
Hình dưới: PeaceCorps Volunteers. Ni ngồi giữa
Có lẻ tui bị trừng phạt vì đã tránh né học tập cải tạo, bỏ xứ Việt Nam mà đi (1973) nên bây giờ bị lưu đày lên Bakel để sám hối tội lỗi của mình. Tưởng số phận mình hẩm hiu, ngờ đâu có mấy Đại Ca trong cùng project, cùng số phận, nhưng còn tệ hơn tui, vì vợ con họ cùng thọ án chung. Mấy đại ca của tui đều là những người đã đi du học Mỹ trước 1975.
Hình trên: John, N.T.Thiệu, Đoàn Minh Quan
Hình dưới: Khách thăm project.
Hình trên: Dân làng và Ni Nguyễn
Hình dưới: USAID Director David Shears (beard), Khôi Le, Ni Nguyen
Project có 4 Chuyên Gia. Tui KS Nguyễn Văn Ni ( Giảng Viêh Đại học NLS Cần thơ, MS-CSU Fort Collins) vì còn độc thân nên lãnh phần thủ trại ở tỉnh Bakel. Dr. Lê Nguyên Khôi (Giảng Viêh Đại học NLS SàiGòn, PhD- UF Gainsville), Dr. Vũ Văn Cữ (Giảng Viêh Đại học NLS SàiGòn, PhD- UF Gainsville), KS Nguyễn Thế Thiệu (Nguyên Giám Đốc Nha Khuyến Nông, MS- LSU Baton Rouge) cả ba vì có gia đình và con nhỏ nên “an cư” ở Dakar, thủ đô của xứ Sénégal, cách xa project 660km. Tuy lái xe mất trên 12 giờ, nhưng mấy ổng mỗi tháng đều chuồn về Dakar hú hí với vợ con. Thỉnh thoảng tui cũng đi theo để tiếp tế lương thực và thay không khí.
Bên kia bờ sông Senegal là xứ Mali , nơi có project (World Bank) của Sư phụ Đoàn Minh Quan (Nguyên là Thứ Trưởng bộ Nông Nghiệp). Sư Phụ có qua thăm chúng tui bên nầy sông Sénégal (1984-1985).
Trong thời gian ở Sénégal, tui có duyên được tiếp Sư Phụ Tôn Thất Trình (Nguyên Tổng Trưởng Canh Nông) lúc ông đi công tác ở Dakar. Lúc ấy GS là Chuyên Gia của FAO/Roma (1986). Bọn tui là Chuyên Gia USAID/Sénégal.
Hình trên: Dr. Vũ Văn Cữ
Hình dưới: Dr. Khôi Lê và BS. Hồ Hán Dân
Xứ Sénégal bị xứ Gambia chen vào giữa. Muốn đi về miền Nam Sénégal phải đi xuyên qua xứ nầy. Vì tui đi xe có bản số diplomatic và phù hiệu bắt tay “Mỹ quốc viện trợ”, tui có thể đi khắp nơi, qua xứ Gambia, Mauritania, và Mali không cần visa. Cái phù hiệu hai bàn tay bắt, dán ở cửa xe là cái visa “passe-partout”.
Tui có dịp đi Casamance (sau nầy làm việc ở đây 1 năm) thăm Sư Phụ GS Trương Đình Huân (Nguyên Giám Đốc nha Nông Cơ) cùng đại ca Hồ Hán Dân (Bác Sĩ Thú Y, Nguyên Giám Đốc Thảo Cầm Viên) và Dr. Francis Cần( Giảng Viên Đại học NLS Saigon, PhD ) đều là Chuyên Gia của USAID/Sénégal. Đại ca KS Phạm Thanh Khâm (Nguyên Giám Đốc nha Canh Nông, MS—USA) lúc ấy đang làm việc ở Conakry, xứ Guinea, thỉnh thoảng đi công tác ở Sénégal nên thường gặp bọn tui. Cái xứ Sénégal nhỏ bé nầy nó khôn bỏ mẹ, nó mang nguyên cái bộ Canh Nông sang, và hốt hết bao nhiêu chất xám vất đi ở Việt Nam đem về xài.
Đứng: Lê N. Khôi, Ni V. Nguyễn
Ngồi: Lương T. Siêu, Trương Đ. Huân, Phạm T. Khâm
Bakel tuy là vùng khỉ ho cò gáy, nhưng có rất nhiều projects tài trợ bởi USAID. Ngoài ra còn có các project khác, tài trợ bởi Nhật, Thụy Điển, Pháp, Đức và một số Peace Corps Volunteers.
Ở Dakar, tui may mắn được kết thân với Sư Phụ Bùi Hữu Tuấn (Nguyên Tổng Trưởng bộ Công Chánh), Sư Phụ Lương Thế Siêu (Nguyên Tổng Trưởng Bộ Công Chánh- sau ông Bùi Hữu Tuấn), Bác Boyer (Pháp), Bác Nguyễn Văn Đức (Pháp) và Ông Nguyễn Tửu (Pháp).
Vì số Chuyên Gia Việt Nam ở Sénégal có chừng ấy người lúc bấy giờ, nên mọi người chơi rất thân, gần gũi như anh em.
Trong thời điểm nầy (1982-1988), ngoài các Chuyên Gia ở Senegal kể trên, có một số Chuyên Gia Việt Nam khác mà tui biết, làm việc ở các xứ lân cận vùng Tây Phi như: Sư Phụ Đoàn Minh Quan (Mali), KS Phạm Thanh Khâm ( Conakry- Guinea), Dr. Trần Văn Đạt (Burkina Faso), Dr. Nguyễn Văn Ngưu (Cameroon), Dr. Đổ cao Thiện (Ougadougou- Burkinafaso). Ngoài GS Tôn Thất Trình và GS Đoàn Minh Quan là hàng Sư Phụ, các anh em chúng tui đều xuất thân từ trường Cao Đẳng Nông Nghiệp Sài gòn và du học: Lê Hồ Hán Dân (Khóa 1), Lê Nguyên Khôi (khóa 3), Nguyễn Thế Thiệu (Khóa 3), Vũ Văn Cữ (Khóa 4), Trần văn Đạt (khóa 5), Đổ Cao Thiện (khóa 8 ), Nguyễn Văn Ngưu (khóa 8 ), Nguyễn Văn Ni (khóa 8 ).
CHUYÊN GIA MỸ GỐC VIỆT NHÂN VIÊN USAID OVERSEAS
Rất nhiều thân hữu thắc mắc về điều nầy nhưng không thấy câu trả lời. Những Chuyên Gia Mỹ gốc Việt như tui thường là nhân viên khế ước (Contractors) được trả lương bởi tiền viện trợ trong các Projects cho các xứ đang phát triển. Có ba cơ quan tài trợ chánh là Chương Trình Phát Triển Liên Hiệp Quốc (UNDP-United Nations Development Program), Ngân Hàng Thế Giới (World Bank), và Cơ Quan Mỹ Phát Triển Thế Giới (USAID -United States Agency for International Development). Tui chỉ biết về USAID, xin lạm bàn ở đây để đọc giả có một khái niệm và giúp tôi tính giùm xem mấy ông Chuyên Gia nầy có bao nhiêu tiền trong ngân hàng.
Là một PSC (Personal Service Contractor), chúng tui là nhân viên của USAID, State Department, được bảo vệ và hưởng đủ các quyền lợi như các nhân viên tòa đại sứ Mỹ.
Những quyền lợi của một nhân viên tòa Đại Sứ Mỹ.
· Được xử dụng các tiện nghi ở tòa Đại Sứ Mỹ: Tax free commissary, bịnh xá bác sĩ y tá, cafeteria, thư viện…
· Con cái đi học miễn phí: Học trường Mỹ. Nếu tại nhiệm sở không có lớp, con em được gởi đi boarding school ở Mỹ, project trả mọi chi phí, học phí, room &board, và vé máy bay.
· Nhà ở miễn phí. Chuyên Gia được cung cấp nhà ở, nhà tiêu chuẩn cao, trang bị đầy đủ, kể cả người gác dan, điện nước gaz. Project trả hết chi phí.
· Vacation cho cả gia đình, vé máy bay khứ hồi.
· Dọn nhà đi và về, được chuyên chở tất cả đồ gia dụng, kể cả xe (có thể mua xe tax free)
Về lương bổng, ngoài tiền lương căn bản thương lượng,tùy theo chức vụ, bằng cấp và kinh nghiệm, nhân viên được hưởng thêm “post differential” (20-30%), Phụ cấp đắt đỏ (Cost of Living Adjustment -COLA), và Per diem khi đi công tác. Nếu sống theo nếp sống trung bình, tiền Post differential, COLA và Per diem đủ xài cho gia đình. Lương căn bản còn dư đủ, phải nhờ ngân hàng giữ hộ cho chắc ăn. Nghe nói mà ham.
Thấy lợi thì ham nhưng không dể nuốt. Nhiều khi quyền lợi không đáng so vơi các điều bất lợi. Có nhiều trường hợp đi làm ngoại quốc là một quyết định sai lầm như con cái hư hỏng, gia đình đổ vở…
Đây là những điều bất lợi:
· Không được các quyền lợi lâu dài như pension, profit sharing, stock option…
· Gia đình xa cách. Vợ chồng con cái không được gần gũi nhau, ảnh hưởng đến sự phát triển và giáo dục cho con cái và hạnh phúc vợ chồng.
· Nguy hiểm về sức khỏe, bịnh tật, tai nạn.
· Tương lai bất định. Không biết ngày mai sẽ ra sao.
· Đời sống bất ổn. Thay đổi thường xuyên theo từng việc làm.
Các động lực khác
Có những trường hợp các Chuyên Gia quyết định ra đi không phải vì những quyền lợi trên, mà do các động lực khác như muốn khám phá thế giới mới lạ, được du lịch, muốn sử dụng kiến thức và kinh nghiệm của mình có hiệu quả hơn, hoặc nhiệt tâm muốn giúp đỡ người bất hạnh.
Các Chuyên Gia Việt Nam đều là thành phần ưu tú của quốc gia, đầy kinh nghiệm, được đào tạọ bởi những trường đại học nổi tiếng nhất trên thế giới. Tiếc thay chất xám vô giá nầy đã trở thành vô dụng sau 1975. Công trình đầu tư nhân sự lâu dài của quốc gia trở thành lãng phí.
Để tìm hiểu thêm về các Chuyên Gia Việt Nam làm việc ở Phi Châu sau 1975, xin đọc tài liệu của Dr. Trần Đăng Hồng: “Chuyên Gia Việt Nam tại Phi Châu” (http://thnlscantho-2.page.tl/Chuy%EAn-vi%EAn-VN-t%26%237841%3Bi-Africa.htm).
TUI LÀM VIỆC Ở BAKEL (1981-1989)
Sinh hoạt trên sông Sénégal Sạp bán trái cây bên đường
Sénégal nằm sát bờ biển phía Tây của Phi Châu, có diện tích bằng 2/3 Việt Nam, nhưng dân số chỉ có 13 triệu người. Dakar là thủ phủ, khí hậu ôn hòa, kiến trúc giống y Sài Gòn ngày xưa. Tui trấn thủ lưu đồn ở tỉnh Bakel, nằm tận cùng phía Đông Sénégal, trong lục địa bán sa mạc Sahel, mà tôi dịch là “Sa vào địa ngục”.
Project xây 24 hệ thống dẩn thủy nhập điền (8 Ha- 60 Ha mỗi hệ thống) cho 24 làng nằm dọc bờ sông Sénégal và Falemé, từ làng Mouderi cho đến làng Senoudébou. Tui lo chuyện xây hệ thống, bán cơ giới, dùng máy móc và nhân lực để hoàn tất, ba đại ca lo chuyện dạy dân trồng tỉa. Chỉ có thế thôi mà tui đã bỏ 8 năm của đời tui lo cho nó (1981-1989). Không biết bây giờ chuyện gì đã xảy ra cho project sau ngày bọn nầy rời khỏi xứ Sénégal.
Hướng dẫn- dẫn thủy nhập điền Điều động dân làng đào kinh
Huấn luyện nông dân tưới ruộng Thiết kế và dặt máy bôm trên phao
Công việc tui làm rất là thoải mái vì tui may mắn được làm việc với mấy ông Giám Đốc trẻ đầy nhiệt tâm. Tui thường làm việc ngoài đồng và tại nhà, chỉ vào văn phòng khi cần thiết. Sở làm thì nhỏ, nhưng nhân viên lại đông, họ đều là công chức. Vào sở, ai có chuyện thì làm, không có chuyện làm thì đi vòng vòng chơi, vì trong văn phòng không đủ chỗ ngồi cho tất cả mọi người. Họ ngồi tán dóc ngoài sân, dưới bóng cây. Mặt trời xoay vòng, bóng mát cũng xoay vòng, họ cũng liên tục nương theo bóng mát mà xoay vòng theo.
Các đại ca của tui lần lượt được phóng thích trở về Mỹ (1986), để lại tui một mình trong cái nhà to lớn, có lẻ lớn nhứt trong tỉnh Bakel sau Préfecture (Dinh tỉnh trưởng), với một thằng gác dan, và thằng tài xế. Bakel buồn lắm, không có Hotel, không có quán ăn, không có quán cà phê hay bia ôm. Để đỡ buồn tui có nuôi con ngựa để cởi. Ở đây chỉ có hàng quí tộc mới nuôi nỗi ngựa. Lúc mới đem về nó rất đẹp, lông trắng tinh, tui rất hãnh diện, cỡi vòng vòng khoe của. Nhưng than ôi, càng nuôi nó càng ốm, tuy rằng tui cho nó ăn thêm thức ăn hổn họp mua tận thành phố chở về. Nó vẫn thiếu ăn, ốm nhom y như chủ nó. Thời gian còn lại tui đi săn heo rừng hoặc vẽ tranh.
Bữa ăn thịt dê nướng bên đường Buổi họp ngoài đồng (có Khôi, Thiệu và Ni)
Mỗi buổi sáng, đúng 5 giờ, các Mosque đã lanh lãnh phóng thanh ..Allah… Allah.. ỏm tỏi để đánh thức các tín đồ. Tui đâu phải tín đồ, nhưng cũng bị đánh thức theo để nghe giảng đạo bằng tiếng Á Rập.
Có lần tui nghỉ phép về thăm gia đình ở Việt Nam. Làng tui đâu có đạo Hồi, nhưng mỗi sáng cái “đài” của Phường cũng chĩa loa vào nhà tui bắt tui nghe giảng. Tui bị nhức đầu không phải vì hai cái lỗ tai bị nhét cứng với lời hay tư tưởng đẹp, nhưng vì tức mình là đã trốn cái loa ở Phi Châu lại bị cái loa ở Việt Nam. Sao nghiệp chướng của tui quá nặng nề!
Tui đi săn heo rừng ở Phi Châu
NGỦ GIƯỜNG CÁT
Bão cát Cây Baobab vĩ đại
Người ta ngủ giường nệm, giường nước, ở quê Sénégal của tui, ngủ giường cát!
Khí hậu Sahel - tạm dịch là “rơi vào địa ngục” - rất nóng bức mà tui lại ham ở nhà to, nên máy lạnh không đủ sức làm mát cả nhà. Buổi chiều, khi trời tắt nắng, tui thường sinh hoạt ngoài sân, và ngủ luôn. Ngủ ngoài sân thì mát hơn, nhưng lại bị nạn bão cát.
Bão cát xảy ra bất cứ lúc nào, không có một triệu chứng nào báo trước, ngoại trừ con ngựa. Nó khục khịt mũi, dậm chân, nhốn nháo như sợ sệt điều gì.
Nếu lắng tai nghe, tiếng bão cát bắt đầu rì rì từ rất xa, càng lúc càng to hơn. Khi tiếng bão trở thành ào ạt, nó đã tới gần. Lúc ấy phải quyết định thật nhanh: chiến đấu tới cùng, hoặc co giò mà chạy.
Nếu đã quyết định chạy, phải vọt ngay tức tốc, chui ngay vào nhà và đóng sầm cửa lại trước khi bão đến. Nếu bão đã đến trước khi đóng cửa, thì áp suất của gió mạnh đến nỗi cửa không thể nào đóng được nữa.Trời đất mịt mù, tối sầm, các bóng đèn điện mù mờ như mấy cái đốm vàng. Gió đẩy cát bụi, cành lá tràn vào nhà như nước lũ. Đồ đạc trong nhà bay tứ tung. May thay, cơn bão thường đi qua rất nhanh, để lại chiến trường bao ngổn ngang đổ vở, cát bụi phủ đầy nhà, hôm sau mặc tình mà lau dọn.
Còn nếu quyết định chiến đấu đến cùng với bão cát, tức tốc kéo chăn chùm kín cả người, cuộn tròn như con đuông trong cái kén……. nằm yên mà chiến đấu.
Khổ cho tui là bão cát thường đến về đêm, lúc đang ngủ say. Khi bị đánh thức bởi tiếng bão rít thì đã quá muộn, không thể nào chạy kịp, chỉ còn có cách chiến đấu với bão tới cùng, bằng cách là kéo chăn chùm kín mít…..nằm yên và…… ngủ tiếp.
Sáng hôm sau thức giấc thấy mình nằm trên cái giường cát, cũng êm ái chán!!!
BỊNH MÙ VÌ BỊ RUỒI CẮN- River blindness (Onchocerciasis)
Có nhiều làng ở vùng Sub Sahara, hơn 50% dân trong làng trên 40 tuổi bị mù. Trong phạm vi hoạt động của tui có làng Sénoudébou, nằm trên nhánh sông Falémé, một chi nhánh của sông Sénégal, bịnh mù vẩn còn.
Người mù trong làng Mắt mù
Trong quá trình xây 10 mẫu ruộng cho làng, tui thường xuyên đến đây và biết nhiều về làng nầy. Vì vậy tui được USAID nhờ hướng dẫn một phóng viên của báo Science sang Phi Châu nghiên cứu về bịnh mù. Bakel không có Hotel nên tất cả khách của USAID viếng Bakel đều ở nhà tui. Ông cũng vậy. Tui còn nhớ tên ông là John Walsh, rất hiền từ và dể thương. Tui đưa ông đến làng Sénoudébou. Tội nghiệp ông Mỹ già, chương trình ở Bakel một tuần, nhưng chỉ 3 hôm tôi phải đưa ông về thành phố Dakar vì ông bị tiêu chảy, người nhũn ra như cọng bún thiêu. Về Mỹ ông viết thơ cám ơn tui như một ân nhân vì đã cho ông ăn… cháo trắng với muối 4 hôm liên tiếp!
Trong làng có cây Neem rất lớn, dưới bóng mát của tàng cây, dân làng làm cái sàn bằng gỗ, là chỗ tập trung của các người mù. Suốt ngày họ sống dưới tàn cây nầy. Nhờ tập trung nên con cháu dể chăm sóc và bịnh nhân có bầu bạn qua ngày. Lúc nào tui cũng thấy năm bảy người mù ngồi dưới tàn cây.
Bịnh mù (River Blindness) chỉ xảy ra dọc các dòng sông. Bịnh lan truyền do một loại ruồi đen (Black flies) cắn người. Ký sinh trùng sinh sản số lượng lớn ấu trùng, là những con trùng nhỏ đào hang đục khoét dưới da để di chuyển và thoát ra ở mắt, làm bị mù.
TUI NHẬP QUỐC TỊCH MỸ TRONG 10 NGÀY
Lúc tui đi làm ở Senegal tui vẫn chưa được vào quốc tịch Mỹ vì Imigration ở Los Angeles làm lạc mất hồ sơ mà tui đã nộp mấy năm về trước. Tui có kể câu chuyện cho John nghe trong lúc hàn huyên với ông. John bảo để ông xem có làm được gì, khi ông trở về Mỹ. Rồi tui cũng quên mất đi.
Khoảng 2 tháng sau, tui nhận được thơ từ văn phòng Thượng Nghị Sĩ (quên tên rôi!) gởi từ Washington DC, yêu cầu tui cung cấp tài liệu chứng minh là tui đã nộp đơn xin nhập tịch. May thay tui còn giữ cái biên nhận đóng tiền lúc nộp đơn.
Vài tháng sau, tui được lịnh USAID gọi về Dakar gấp. Tui được USAID cho 2 tuần lễ vacation có lương và vé máy bay khứ hồi, đi về Mỹ tức tốc để làm thủ tục nhập tịch!
Tui ngớ ngẩn như người vừa rớt xuống từ hành tinh khác!
Thì ra ông bạn già John Walsh đã nhờ văn phòng Senator can thiệp vụ của tui, để trả ơn tui cho ông ăn cháo với muối trong mấy ngày!
Tui bay ngay về Mỹ, và không thể tưởng tượng được, chỉ trong vòng mười hôm, tui hí hửng cầm trên tay cái bằng quốc tịch Mỹ, cái mà tôi từng ao ước và đồng thời từng đau khổ vì nó.
Tui cầm tập hồ sơ mà văn phòng Thượng Nghị Sĩ đã gởi cho tui, trình diện tại văn phòng Immigration ở Los Angeless. Tôi được một nhân viên INS tiếp đón thật niềm nở, được đích thân bà hướng dẫn từ phòng nầy sang phòng khác để làm tất cả các thủ tục cần thiết như điền lại đơn, chụp hình, lăn tay, làm bài thi, phỏng vấn, chỉ trong vòng một ngày.
Tui lơ ngơ, bà bảo sao làm vậy. Tui đâu có chuẩn bị trước, đâu có học hành gì thì làm sao mà làm bài thi và trả lời phỏng vấn cho đúng! Tui trả lời đại theo sự hiểu biết của mình, không biết đúng hay sai. Khi đến phần phỏng vấn, tui được hỏi tên ông dân biểu đương thời ở quận hạt của tôi. Tui trả lời là không biết vì 4 năm cuối cùng tui ở Phi Châu. Bà hỏi tiếp tên ông Thượng Nghị Sĩ, tui cho tên ông Thượng Nghị Sĩ mấy năm về trước. Khi cuộc phỏng vấn xong, tui thấy lo quá, bèn làm liều hỏi đại bà Mỹ mập, người phỏng vấn tui:
-How did I do?
Bà Mỹ đen, mặt luôn luôn lạnh như tiền, nhìn tui rồi bà mỉm cười, ôi cái cười sao mà dể thương làm sao!
-You passed.
Tí nữa là tui nhảy chồm lên, ôm bà mà kiss tuy bà là Mỹ đen, nặng chừng 200 Lbs.
“That’s it”, bà nhân viên hướng dẫn tôi suốt ngày, bắt tay tôi chúc mừng và đưa cho tôi lá thơ thông báo thời gian và địa điểm cho buổi lể tuyên thệ nhập tịch.
Buổi tuyên thệ xảy ra 10 hôm sau, trong một nhà thờ nhỏ ở Los Angeless. Chỉ có khoảng 50 người tham dự buổi lễ tuyên thệ nầy.
Tôi trở thành công dân Mỹ sau 10 ngày!
Tôi hoàn toàn không biết bất cứ một chi tiết nào về cách hợp tác giữa 4 thành phần liên hệ, đã làm việc chung để giải quyết vấn đề của tôi: John Walsh, Senetor office in Washington, USAID in Senegal, INS in Los Angeless. Tôi chỉ nhận được vỏn vẹn một lá thơ cũa văn phòng Senetor gởi cho tôi, do ông Senator ký tên, cú điện thoại của USAID Senegal gọi tôi về thủ đô gấp, và xấp hồ sơ để trình diện tai INS Los Angeles.
Tôi không thể ngờ sự can thiệp của John qua văn phòng Thượng Nghị Sĩ, với sự yểm trợ của USAID có kết quả mạnh như vậy.
Nhưng điều làm tôi ngạc nhiên nhất, không thể ngờ có thể xảy ra được, là chén cháo muối với tấm lòng của tôi cho John Walsh đã được ông trả lại chừng ấy công!!!
BỊNH ĐI TIỂU RA MÁU Snail fever (Schistosomiasis)
Con ốc mang mầm bịnh tiểu ra máu.
Làng Richard Toll nằm ven bờ sông Sénégal. Năm 1987 là thời điểm bị nhiễm bịnh trầm trọng nhất, có đến 71.5% dân trong làng bị nhiễm bịnh.
Thuở ấy nếu trẻ con trong làng có đứa nào có nước tiểu màu trắng, đứa bé được xem là bất bình thường. Hầu hết mọi người trong làng đều đi tiểu ra máu. Nước tiểu có mầu đỏ!
Bịnh tiểu ra máu lan truyền bởi ấu trùng của một loại ký sinh trùng sống ở loài ốc sên trong các đầm nước. Ấu trùng từ con ốc, vào nước, chui vào bịnh nhân và sống trong các mạch máu, sinh sản vô số trứng. Nếu bịnh nhân đi tiêu tiểu trong đầm, trứng trong nước chui vào ốc, nở thành ấu trùng và tiếp tục chu kỳ sinh sản. Bịnh thường thấy ở trẻ con hoặc những người hay tiếp xúc với nước trong đầm, ao hồ, ruộng lúa. Tuy thành phố Richard Toll nằm ngoài địa bàn hoạt động, nhưng tui thường xuyên qua lại vùng nầy.
Trong thời gian làm việc ở Bakel tui chứng kiến dịch bịnh Meningitis bộc phát ở phía Bắc (Saint Louis), và Cholera bộc phát ở phía Đông (Tambacounda) có nhiều người chết. Trong đám Chuyên Gia của chúng tui có 2 người bị bịnh Hepatitis, một người phải di tản về Mỹ. Tuy biết làm việc ở vùng nầy rất nguy hiểm, nhưng lúc ấy sao tui không biết sợ là gì, tỉnh bơ !!!
Đọc tiếp Phần 3 kỳ tới