15/10/2015
THỜI NGUYÊN THỦY:
GIAI ĐOẠN HÁI-LƯỢM, THUẦN DƯỠNG CÂY LÚA
(18.000 - 6.000 năm)
Ảnh minh họa
1. MỞ ĐẦU
Lịch sử trồng lúa là một đề tài lớn trong khi thông tin và tài liệu còn nhiều giới hạn. Tuy nhiên, cây lúa là loại lương thực quan trọng của dân tộc Việt Nam ít nhứt từ 3.000 năm qua và của hơn phân nửa dân số thế giới hiện nay. Dân tộc có lịch sử, cây lúa cũng cần có lịch sử để tìm hiểu sự tương quan giữa con người và loại Hòa Thảo này. Trong thời gian qua, những thành tựu ngành khảo cổ học và thư tịch trong và ngoài nước đã giúp rọi sáng phần nào tiến hóa phát triển của nền nông nghiệp và ngành trồng lúa Việt Nam từ thời sơ cổ đến hiện đại; nhưng lãnh vực này còn cần thêm nhiều nghiên cứu sâu rộng, nhứt là công trình khai quật khảo cổ học để sớm có bức tranh rõ nét về lịch sử tiến hóa của ngành này.
Các phát hiện khảo cổ học cho biết quá trình trồng lúa ở Việt Nam đã tiến hóa lâu dài theo trình độ văn minh dân tộc qua nhiều chặng đường phát triển. Từ thời người Vượn cho đến cuối thời đại Đồ Đá Mới khoảng 5.000 năm trước là thời nguyên thủy (hay tiền sử), con người chỉ biết săn bắt, hái lượm và bắt đầu nghề nông nghiệp; nhưng chưa khai hóa tiến bộ như thời đại Kim Khí. Từ nền văn hóa Hòa Bình (10.000-8.000 năm), cuộc Cách Mạng Đá Mới bùng phát khắp nơi, nền nông nghiệp sơ khai xuất hiện và con người dùng khoai đậu sò ốc để có thêm thức ăn, biết dưỡng trồng hạt lúa hoang dại quanh nơi cư trú hoặc các đầm lầy, rừng núi để có thêm lương thực. Đến thời kỳ văn hóa Bắc Sơn, nhiều băng nhóm trồng lúa rẫy xuất hiện, đánh dấu thay đổi lớn của con người, ảnh hưởng sâu đậm đến văn minh dân tộc Văn Lang sau này, vì nghề trồng lúa mang đến đời sống xã hội ổn định hơn. Sau đó sự xuất hiện các kim loại như đồng, thau, sắt, gang và nghề luyện kim qua các nền văn hóa Phùng nguyên, Đồng Đậu và Gò Mun đã cung cấp cho nghề nông chủ yếu ngành trồng lúa các công cụ hoạt động hữu hiệu làm tăng sản xuất và cải tiến năng suất đảm bảo lương thực cho dân số ngày càng đông đảo hơn, đặc biệt vào hậu bán thời đại Hùng Vương và An Dương Vương.
Về khảo cổ học, từ lâu các trầm tích hạt lúa, hạt gạo, vỏ trấu, than tro, bào tử phấn hoa, côn trùng, phytoliths… thường được các nhà nghiên cứu dùng đến để đánh giá niên đại và nguồn gốc cây lúa. Nhưng các di tích khảo cổ thường bị chi phối lâu dài bởi các điều kiện khí hậu, môi trường địa phương; cho nên phương cách xác định niên đại của các di vật khảo cổ thường gặp sai lầm không thể tránh được. Khí hậu nóng ẩm của các miền nhiệt đới thường hủy hoại các thực vật, hạt lúa gạo nhanh hơn các vùng có khí hậu ôn đới, ngoại trừ chúng được hóa thạch hoặc dưới hình thái khác như gạo cháy, phytoliths... Hiện tượng biển tiến và biển lùi đã làm cuốn trôi nhiều di tích thực vật cổ ở các vùng đồng bằng trũng thấp ven biển. Dù thế, việc dùng phương pháp đồng vị phóng xạ C14 để xác nhận khung niên đại di vật phát hiện trong các cuộc khai quật hoặc sưu tầm có giá trị tương đối để hiểu biết rõ hơn những nền văn hóa khảo cổ trong thời tiền sử và có sử. Nhờ đó, chúng ta có được một số thông tin đáng tin cậy về tiến hóa ngành nông nghiệp lúa qua nhiều giai đoạn thăng hoa của dân tộc và đất nước.
Để có ý niệm thời gian rõ rệt trong quá trình tiến hóa vạn vật, các giai đoạn sử học và khảo cổ học được sơ lược trình bày trước khi bước vào tìm hiểu lịch sử ngành nông nghiệp lúa cổ sơ qua khảo cổ học Việt Nam và quốc tế.
2. THỜI ĐẠI VÀ CÁC NỀN VĂN HÓA
Các nhà sử học thường phân chia lịch sử loài người làm hai thời kỳ chính: tiền sử và có sử.
Thời tiền sử gồm có 3 thời đại:
- Thời đại Đồ Đá Cũ (hay đá đập): từ khoảng 1.600.000 đến 11.000 năm trước,
- Thời đại Đồ Đá Mới (hay đá mài): từ khoảng 11.000 đến 6.000 năm trước,
- Thời đại Kim Khí (thời có sử): bắt đầu khoảng 5.000 năm trước.
Thời có sử gồm có 4 thời đại:
- Thời Thượng Cổ: từ khi có chữ viết (5.000 năm trước) đến thế kỷ V sau Công Nguyên (CN),
- Thời Trung Cổ: từ thế kỷ V đến thế kỷ XV sau CN,
- Thời Cận Đại: từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII, và
- Thời Hiện Đại: từ thế kỷ XVIII đến ngày nay.
Theo khảo cổ học, kỷ Thứ 4 còn gọi là kỷ Nhân sinh, là kỷ hình thành phát triển con người và trái đất. Kỷ Thứ 4 có thể dài lâu độ 1,6 triệu năm hoặc hơn và được phân chia làm 2 giai đoạn:
· Cánh Tân (Pleistocene) còn gọi là thời đại Đá Cũ thật dài, và
· Toàn Tân (Holocene) hay thời đại Đá Mới-Kim Loại thật ngắn, khoảng từ 10.000 năm nay.
Riêng thời kỳ Cánh Tân được phân ra là 3 giai đoạn: Cánh Tân sớm Q1, Cánh Tân giữa Q2 và Cánh Tân muộn Q3. Kỷ Thứ Tư được tóm lược với niên đại ước định trong Bảng 1.
Bảng 1: Phân chia giai đoạn kỷ Thứ Tư
Kỷ
|
Thế
|
Dưới thế
|
Niên đại
tuyệt đối
|
|
Toàn Tân (Holocene)
(Đá Mới: Neolithic, Kim Loại và Hiện Đại)
|
|
10.000 năm BP
|
KỶ THỨ TƯ
|
Nhân sinh
|
Cánh Tân muộn
|
125.000 năn BP
|
|
Cánh Tân (Pleistocene)
(đá cũ: Palaeolithic)
|
Cánh Tân giữa
|
700.000 năm BP
|
|
|
Cánh Tân sớm
|
1.600.000 năm BP
|
KỶ THỨ BA
|
Tân sinh (Pliocene)
|
|
|
Nguồn: - Viện Khảo Cổ Học, 1998
- BP: Before present: trước ngày nay, theo qui ước khảo cổ học trước ngày 1 tháng giêng 1950 vì “ngày nay” luôn bất định.
Thời đại Đá (cũ và mới) là thời kỳ dài nhứt của lịch sử loài người, chỉ chấm dứt cách nay độ 5.000-6.000 năm. Theo các cuộc nghiên cứu cho biết vào thời đại đá Người Vượn (Homo erectus) có nguồn gốc từ châu Phi, di cư tới châu Á cách nay độ một triệu năm (Ciochon, 1988). Người Vượn có thể xuất hiện trên đất nước Việt Nam cách nay độ 250.000 năm hoặc sớm hơn, nhưng chưa có chứng cớ xác thực. Nhưng Người Khôn Ngoan Sớm (Homo sapien) có thể hiện diện ở nước ta cách nay 70.000-60.000 năm và Người Khôn Ngoan Muộn (Homo sapiens sapiens) độ 30.000 năm, căn cứ vào một số di chỉ khảo cổ được tìm thấy như răng, cốt người hóa thạch trong các hang động (Viện Khảo Cổ Học, 1998).
Ở Việt Nam, thời đại sơ kỳ Đá Cũ đã được ghi nhận và khảo sát ở di chỉ khảo cổ Núi Đọ thuộc Miền Bắc và Xuân Lộc ở Miền Nam (cách nay khoảng 300.000 năm), mặc dù các công cụ (Hình 1), vật liệu thu thập được trên mặt đất còn giới hạn và các phương pháp xác định niên đại chưa có tính cách thuyết phục. Tiếp theo thời đại này, các nhà khảo cổ cũng “xác định” được các giai đoạn thời hậu kỳ đá cũ, như sau:
· Kỹ nghệ Ngườm (30.000-23.000 năm cách ngày nay).
· Văn hóa Sơn Vi (18.000-11.000 năm cách ngày nay).
Một cách tổng thể, thời đại Đá Mới và Kim Khí gồm có các nền văn hóa chủ yếu như sau:
· Văn hóa Hòa Bình (10.000-8.000 năm cách ngày nay)
· Văn hóa Bắc Sơn (6.000-5.000 năm cách ngày nay)
· Văn hóa Phùng Nguyên 4.500-3.500 năm cách ngày nay)
· Văn Hóa Đồng Đậu (3.500 - 3.000 năm cách ngày nay)
· Văn hóa Gò Mun (3.100-2.800 năm cách ngày nay)
· Văn hóa Đông Sơn (2.800 - 1.800 năm cách ngày nay)
Các nền văn hóa sau này có thời gian ngắn hơn, do con người ngày càng tiến bộ nhanh hơn.
3. GIAI ĐOẠN SĂN BẮT-HÁI LƯỢM VÀ NÔNG NGHIỆP SƠ KHAI (cách nay 18.000 - 8.000 năm)
(Viện Khảo Cổ Học, 1998 và 1999; Bùi Thiết, 2000; Nguyễn Phan Quang & Võ Xuân Đàn, 2.000; và Viện Thành Tựu Khoa Học Xã Hội, 1987).
Trong giai đoạn hậu kỳ thời đại Đá Cũ, con người còn sống rất hoang dã. Họ trải qua giai đoạn phát triển trí tuệ và thể chất để thích ứng với môi trường thiên nhiên và tồn tại. Nhờ đó, sinh hoạt hàng ngày của họ thay đổi dần theo thời gian, từ sinh hoạt săn bắt và hái lưọm tiến đến nghề “nông nghiệp sơ khai” để có đời sống tương đối
tốt hơn và ổn định hơn, sau thời kỳ Băng Giá cuối cùng và Tiểu Hạn (Younger dryas) khô lạnh.
Hình 1: Bản vẽ Công cụ đá cũ sơ kỳ ở Việt Nam
(1-2: Núi Đọ, 3-5: Đông Nam Bộ) (Viện Khảo Cổ Học, 1998)
3.1. Giai đọan săn bắt và hái lượm
Theo các nhà khảo cổ học, kỹ nghệ mảnh tước được tìm thấy ở mái đá Ngườm, Thái Nguyên, được gọi là kỹ nghệ (hay văn hóa) Ngườm (Hình 2) phát triển trước nền văn hóa Sơn Vi (từ 18.000 - 11.000 năm cách ngày nay). Cả hai giai đoạn tiến hóa này thuộc hậu kỳ thời đại Đá Cũ. Giai đoạn đóng băng đạt đến cực đại cuối cùng (và bắt đầu băng tan) cách nay khoảng 20.000-18.000 năm.
Hình 2: Công cụ mảnh tước Kỹ nghệ Ngườm
(1-27: Mái đá Ngườm) (Viện Khảo Cổ Học, 1998)
Từ thời Người Khôn Ngoan sớm (Homo sapiens) cho đến người Sơn Vi, các di vật khảo cổ liên hệ đến nền nông nghiệp sơ khai không được tìm thấy ở các địa điểm khai quật, ngoài các công cụ thuộc thời đại Đá Cũ liên quan đến sinh hoạt con người như cắt, chặt, bổ…, và các bào tử hạt phấn của một số loài thảo mộc thiên nhiên. Lúc bấy giờ, con người sống từng bầy từng nhóm, với sinh hoạt chủ yếu là săn bắt và hái lượm ngoài trời để sinh tồn và đời sống của họ hoàn toàn hoang dã, di động. Con người tìm những thức ăn thảo mộc như cây có củ (như củ từ), cây đậu và hái những hạt lúa hoang trong các đầm lầy, rừng núi (Chang, 1985). Ở Việt Nam, họ còn bắt ốc núi, ốc suối và thú rừng làm lương thực. Trong điều kiện khí hậu gió mùa có nắng ấm mưa nhiều, đất nước Việt Nam vào thời nguyên thủy chắc chắn có quần thể thực vật rất phong phú và đa dạng, cung cấp cho các cư dân nguồn thực phẩm thảo mộc và động vật thiên nhiên vô hạn.
3.2. Nền nông nghiệp sơ khai xuất hiện trong văn hóa Hòa Bình
Tiếp theo nền văn hóa Sơn Vi, con người bước đến giai đoạn văn hóa Hòa Bình cách nay khoảng 10.000-8.000 năm hay bắt đầu thời đại Đá Mới. Nền văn hóa này do bà Madeline Colani khám phá (1926), đã xuất hiện không những ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước Đông Nam Á, như Lào, Thái Lan, Campuchia, Myanmar, Malaysia, Indonesia, Philippines… Con người còn sống từng băng, lấy hang động làm đơn vị cư trú. Có những hình khắc mặt người (Hình 3) và thú trên vách đá hang động trong hang Đồng Nội. Với câu “ăn lông ở lỗ” người ta có thể tưởng tượng đời sống người thượng cổ còn man dại, phần lớn săn bắt và hái lượm là nền kinh tế chủ yếu của họ. Hàng ngày con người rủ nhau đi săn bắn hoặc xuống sông suối bắt ốc, cá hoặc hái lượm các loài cây củ đậu để làm thức ăn. Đời sống luôn phải di chuyển để tìm thức ăn vì chưa biết trồng các loại cây kinh tế cố định. Trong nền văn hóa Hòa Bình - buổi bình minh của nhân loại - con người đã có ít khái niệm chống chế thiên nhiên và có ít sáng kiến trong công việc chế tạo dụng cụ sản xuất hữu hiệu hơn để có nhiều thức ăn. Cũng giống như nền văn hóa Sơn vi, công cụ của nền văn hóa này làm bằng đá cuội để chế tạo các vật dụng bằng gỗ tre, nhưng có phần tốt hơn. Các nhà khảo cổ học xem các dụng cụ ghè đẽo một mặt (Hình 4), còn giữ nguyên một mặt vỏ đá cuội là đặc trưng của văn hóa Hòa Bình. Trong nền văn hóa này chưa có hoặc rất hiếm đồ gốm.
Di tích động vật của nền văn hóa Hòa Bình gồm có các loài nhuyễn thể như ốc núi, ốc suối, loài trai. Các nhà nghiên cứu cho rằng các loại ốc này là đối tượng chính trong hái lượm của cư dân văn hóa Hòa Bình do ít nguy hiểm. Xương động vật có xương sống còn rất ít, gồm các loài hoang dã chưa thuần thục như vượn, khỉ, nhím, chuột, hươu, hoẵng, nai, bò rừng, trâu rừng, lửng, vòi hương, hổ và rất ít voi cổ, tê giác và lợn rừng (Vũ Thế Long, 1984).
Kết quả phân tích bào tử phấn hoa của nền văn hóa Hòa Bình cho thấy có tới 22 loài bào tử và trên 40 loài phấn hoa khác nhau, trong đó chưa gặp các loại thảo mộc được con người thuần dưỡng (Trần Đạt, 1987). Tuy nhiên, lớp trên của văn hóa Hòa Bình và văn hóa Bắc Sơn đã có các rìu mài lưỡi có thể dùng phát hoang để trồng trọt. Điều này cho biết thức ăn thực vật hoang dã chiếm vị trí đáng kể trong hoạt động hái lượm.
Hình 3: Hình khắc trên đá ở Hòa bình (7.000-8.000 năm trước) (Ảnh: N. K. Quỳnh)
Hình 4: Công cụ đá văn hóa Hòa Bình
(1-11: Di chỉ Hang Xóm Trại) (Viện Khảo Cổ Học, 1998)
Trong các nghiên cứu phân tích phấn hoa, người ta tìm thấy với số lượng cao của các giống cây họ Đậu (Leguminoceae) ở các di tích hang Bưng, Hòa Bình; họ rau Muối (Chenopediaceae) ở hang Con Moong và xóm Trại, Hoà Bình và họ Cà Phê (Rubiaceae) ở hang Con Moong. Ngoài ra, các di tích của nền văn hóa Hòa Bình còn có các loài hạt quả như hạt gắm (Gnetum montanum), hạt cọ (Livistona cochinchinensis), hạt côm (Elaeocarpus sylvestris), hạt me (Phyllanthus emblica L.), hạt trà (Thea sp.), trám tre (Canarium tonkinensis) và trám (Canarium sp.). Tại các di chỉ Hạ Sơn (Thái Nguyên) trong tổng số 38 hạt, dương xỉ có tới 9 hạt, phấn hoa thực vật hạt kín là 20 hạt, chủ yếu là: Lithoiagus, Quercus, Magnolia, Corylus, Betula, Graminae, Araceae (Nguyễn Địch Dỹ và Đinh Văn Thuận, 1981) (Xem Phụ Bản 1: Khảo cổ học Việt Nam: Biến đổi khí hậu và Biển tiến-biển lùi).
Ở hang Ma (Spirit cave) thuộc miền biên giới Thái Lan và Miến Điện, nhà khảo cổ học Chester Gorman (1969) đã tìm thấy được 28 loại bào tử phấn hoa của các loài cây ăn trái khác nhau, di vật hóa than như hai hột đậu Hòa Lan, củ năng, hột ớt, những đoạn dây bầu bí và dưa chuột, cùng với những dụng cụ bằng đá của những người dân có nền văn hóa Hoà Bình xuất hiện cách nay ít nhứt khoảng 8.000 - 6.000 năm. Ngoài ra, các nhà khảo cổ còn tìm thấy dấu vết hạt lúa và vỏ trấu trên những mảnh gốm ở Non Nok Tha thuộc vùng Korat với niên đại phóng xạ cách nay khoảng 6.000 năm (Solheim II, 1967 và 1971). Ông Higham (1989) báo cáo vỏ trấu và liềm gặt lúa bằng vỏ sò được tìm thấy ở Khok Phanom Di gần vùng vịnh Thái Lan có niên đại phóng xạ cách nay 8.000-6.000 năm.
Tại Việt Nam, dù chưa có di tích thực vật rõ rệt, nhưng sự hiện diện của các rìu đá sơ cổ trong nền văn hóa Hòa Bình giúp các nhà nghiên cứu phỏng đoán thời kỳ nông nghiệp sơ khai có thể xuất hiện ở Việt Nam đồng thời với nhiều nước trong vùng Đông Nam Á. Con người bắt đầu thuần dưỡng một số thảo mộc và loài thú hoang dã, ngoài sinh hoạt hàng ngày với hái lượm và săn bắt để có nhiều thực phẩm và tránh bớt nguy hiểm từ thú dữ. Đây có lẽ là cuộc “Cách Mạng Xanh” đầu tiên (còn gọi Cách Mạng Đá Mới) của những cư dân đất Việt lúc bấy giờ, vì từ một cuộc sống hoàn toàn theo thiên nhiên trở nên cuộc sống với hướng đi mới: nghề nông nghiệp. Họ là những người nông dân đầu tiên ở Việt Nam.
Theo một số nhà khảo cổ học, Cuộc Cách Mạng Đá Mới xảy ra do áp lực của khí hậu khô lạnh khắc nghiệt, gọi là Tiểu Hạn (cách nay 13.000-11.500 năm), áp lực dân số (từ “bầy người” tiến đến “băng” và “bộ lạc”) và trình độ văn hóa tiến bộ của con người.
Đối với cây lúa dại, cư dân lượm hoặc hái hạt lúa nhiều đợt để ăn vì thời gian hạt chín kéo dài và dễ rơi rụng. Qua nhiều năm tháng, họ biết lựa chọn hạt to, ít rụng để gieo trồng gần nhà hầu có thêm lương thực, ngoài sinh hoạt săn bắt và hái lượm thường xuyên. Công tác thuần dưỡng này, nhứt là từ thảo mộc hoang dại để trở thành cây sản xuất đòi hỏi rất nhiều thời gian và lao động của người thuần dưỡng. Theo một báo cáo khảo cổ gần đây ở vùng Trung Đông, thời gian thuần dưỡng từ thảo mộc hoang dã cho đến có hệ thống trồng trọt sản xuất kéo dài khoảng 1.000 năm. Thông tin này có được là do phân tích những mẫu di vật còn sót lại trong thời Đồ Đá Mới (9.600 - 9.300 năm cách ngày nay- kể từ 1950) tại một khu vực gần Biển Chết ở nước Jordan. Đây là khoảng thời gian con người bắt đầu chính thức thuần hóa một số loài thảo mộc trên thế giới và cũng là thời gian họ bắt đầu định cư (Nguyễn Sinh, BBC News, 2007).
4. KẾT LUẬN
Vào thời nguyên thủy, cây lúa dại là loại thực vật đa niên, trở thành cây lúa dại hàng niên vì chịu ảnh hưởng của khí hậu và môi trường trong quá trình thuần dưỡng. Qua nhiều năm tháng cây lúa dại trở nên cây lúa trồng có năng suất cao hơn do sự tuyển chọn của con người để có hạt to và nhiều. Theo khảo cứu, cây lúa dại đa niên Oryza rufipogon được thuần dưỡng trở thành cây lúa dại hàng niên Oryza nivara. Sau cùng do thích ứng với thủy thổ địa cầu, chủ yếu khí hậu khô ẩm, nóng lạnh và mưa nắng cây lúa dại hàng niên trở thành cây lúa trồng Oryza sativa hay cây lúa châu Á (Khush, 1997); sau đó cây lúa này tiếp tục tiến hóa thành 3 nhóm lúa Indica ở vùng nhiệt đới, lúa Japonica (Sinica) vùng ôn đới và lúa Javanica (hay Japonica nhiệt đới) trung gian giữa 2 nhóm này. Cũng nên nhắc lại một số nhà khảo cứu quốc tế, trong đó có Tiến Sĩ T.T. Chang (1985) của IRRI, Philippines tin rằng miền thượng du Bắc Bộ là một trong những trung tâm nguồn gốc xuất phát cây lúa trồng trên thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Bùi Huy Đáp. 1980. Các giống lúa Việt Nam. NXB Khoa Học và Kỹ Thuật, Hà Nội, 563 tr.
2. Bùi Huy Đáp. 1999. Một số vấn đề về cây lúa. NXB Nông Nghiệp, Hà Nội, 154 tr.
3. Bùi Thiết. 2000. Việt Nam Thời Cổ Xưa. NXB Thanh Niên, T.P. Hồ Chí Minh, 463 tr.
4. Chang, T.T. 1985. Crop history and genetic conservation: Rice - A case study. Iowa State Journal of Research 59(4): 425-455.
5. Colani, M. 1926. Découverte du paléolithique dans la province de Hoabinh, L’Anthropolopie, vol XXVI, Paris, France.
6. Colani, M. 1930. Quelques stations Hoabinhiennes. Bulletin de l’École française de l’Orient extrême (BEFE), XXIX, Hanoi.
7. Diệp Đình Hòa, 1978. Người Việt cổ Phương Nam ở vào buổi bình minh của thời dựng nước, Khảo Cổ Học, số 1, tr. 61-69.
8. Đào Thế Tuấn. 1988. Về những hạt gạo cháy phát hiện ở Đồng Đậu (Vĩnh Phúc) năm 1984. Khảo Cổ Học, số 4, tr. 44-46.
9. Higham, C. F. W. 1989. Rice cultivation and the growth of Southeast Asian civilization. Endeavour 13: 82-8.
10. Hoàng Xuân Chính, Nguyễn Khắc Sửu, và Phan Quang Sơn. 1978. Khai quật địa điểm hậu kỳ đá mới Cầu Sắt (Đồng Nai). Trong: Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1977. Viện Khảo Cổ Học, Nhà in Diên Hồng, Hà Nội, tr. 82-84.
11. Khush, G. 1997. Origin, dispersal, cultivation and variation of rice. Plant Mo. Biol. 35:25-34.
12. Lĩnh Nam Chích Quái. 1960. NXB Khai Trí, Sài Gòn, 134 tr.
13. Nguyễn Địch Dỹ, Đinh Văn Thuận và Trần Đạt, 1980. Phân tích bào tử phấn hoa ở Cồn Cổ Ngựa (Thanh Hóa). Những phát hiện mới (NPHM), Viện Khảo Cổ Học 1980.
14. Nguyễn Địch Dỹ và Đinh Văn Thuận. 1981. Kết quả phân tích bào tử phấn hoa ở Hạ Sơn, Phiêng Tung, Nà Khù. Thần Sa- những di tích của con người thời đại đá. Bắc Thái 1981.
15. Nguyễn Phan Quang & Võ Xuân Đàn, 2.000. Lịch sử Việt Nam - Từ nguồn gốc đến năm 1884. NXB T.P. Hồ Chí Minh, 479 tr.
16. Nguyễn Sinh (BBC News), 2007. Con người cổ đại biết trồng trọt khi nào?
(www.tuoitre.com.vn).
17. Nguyễn Trung Chiến. 1998. Văn Hóa Quỳnh Văn. Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội.
18. Nguyễn Văn Quỳnh. 2002. Các bức ảnh về khảo cổ, Viện Khoa Học Nông Nghiệp Việt Nam.
19. Patte, E. 1932. Le Kjokkenmodding néolithique de Dabut et ses sépultures (province de Thanh Hóa, Indochine). Bulletin du Service Géologique d’Indochine (BSGI), vol. XIX, pt.3.
20. Phạm Đức Mạnh, 1997. Tiền sử và sơ sử Đông Nam Bộ (Việt Nam) – Những nhận thức quá khứ và hiện đại. Trong Một số vấn đề khảo cổ học ở Miền Nam Việt Nam. NXB Khoa Học Xã Hội, tr 242-292.
21. Phạm Văn Thích và Hà Văn Tấn. 1970. Phân tích chì trong di vật đồng trong thời đại đồng thau và thời đại sắt sớm. Khảo Cổ Học, số 7-8, tr.126-129.
22. Sakurai, Y. 1987. Reclamation history at the Song Coi (Tonkin) delta of Vietnam. In Watanabe T. Edition “History of Asian Rice”, Shogakukan, Tokyo: 235-276.
23. Solheim II, W.G. 1967. Two pottery traditions of late prehistoric times in Southeast Asia. Historical Archeological and Linguistic Studies on Southern China, Southeast Asia and the Hong Kong region. Ed. F. S. Drake. Hong Kong University Press, Hong Kong 1967, p. 15-22.
24. Solheim II, W.G. 1971. New light on a forgotten past. National Geographic, Vol. 139, No. 3.
25. Trần Đạt và Đinh Văn Thuận. 1984. Phân tích bào tử phấn hoa ở di chỉ Đồng Đậu (Vĩnh Phú). NPHM Viện Khảo Cổ Học, 1984: 91-93.
26. Trần Đạt. 1987. Nhìn lại các kết quả phân tích bào tử phấn hoa trong nghiên cứu khảo cổ học Việt Nam. Khảo Cổ Học, số 4-1987: 61-68.
27. Trần Văn Đạt. www.tranvandat.com (Mục Publication).
28. Trung Tâm Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Quốc Gia.1998. Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Tập I (Quốc sử quán triều Nguyễn). NXB Giáo Dục, 1.207 trang.
29. Viện Khảo Cổ Học. 1998. Khảo cổ học Việt Nam, Tập I: Thời đại đá Việt Nam. NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 457 tr.
30. Viện Khảo Cổ Học. 1999. Khảo cổ học Việt Nam, Tập II: Thời Đại Kim Khí Việt Nam. NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 551 trang.
31. Viện Thành Tựu Khoa Học Xã Hội. 1987. Thành tựu khảo cổ học Việt Nam, tr. 40-41.
32. Vũ Thế Long. 1979. Di tích động vật ở di chỉ Đa Bút (Thanh Hóa). NPHM, Viện Khảo Cổ Học 1979.
33. Vũ Thế Long. 1984. Người Hòa Bình và thế giới động vật. Khảo Cổ Học, số 1, 2-1984.