23/8/2015
Thử tìm hiểu hơn nữa một tỉnh miền Đông Nam Bộ ( Phần ), phụ cận thành phố Sài Gòn, Việt Nam chỉ mới chánh thức đặt nền cai trị thống thuộc nước nhà trên 320 năm, ở một xứ đồng hoang vu nhiều nai- Lộc Dã, nhiều thú dữ, cách đây trên 400 năm chỉ có vài hay vài trăm nóc nhà ; nay riêng một tỉnh lấy tên địa danh Đồng Nai xưa cũ đã có gần 3 triệu rưỡi người dân Việt cư trú :
Lạm bàn phát triễn tỉnh Đồng Nai – Biên Hòa
GS Tôn Thất Trình
|
Phần A – Tổng Quát
“ …Trước kia , việc dùng binh chẳng qua là để giết bọn cừ khôi, và mở mang thêm đất đai… Nhưng từ đồn binh Gia Định đến La Bích ( thủ đô Chân Lạp lúc đó ), đường xá xa xôi , nghìn trùng muôn thác không tiện đuổi ( Nặc Nguyên ). Muốn mở mang đất đai, cũng nên lấy hai phủ này, Tầm Bôn và Lôi Lạp ( Gò Công và Tân An ngày nay), trước để củng cố mặt sau của hai dinh ( Trấn Biên , Phiên Trấn). Trước kia, mở mang phủ Gia Định, tất phải mở trước đất Hưng Phước, rồi đến đất Đồng Nai, khiến quân dân đông đủ, rồi sau mới mở đến Sài Côn . Đó là kế “ tầm ăn lá dâu” …
(Tờ trình năm 1753 của Nguyễn Cư Trinh lên chúa Vỏ Nguyễn Phước Khóat )
Địa lý , Hành chánh
Tỉnh Đồng Nai, thời đệ nhất Cộng Hòa gồm ba tỉnh Biên Hòa, Long Khánh và Phước Thành …, nhập lại, nhưng nay diện tích chỉ còn là 5903 km2 (hay 2279 dặm Anh vuông ) vì tháng 5 năm 1979, Đồng Nai mất đi một phần đất Ô Cấp hay Vũng Tàu ( Cap Saint Jacques ) để thành lập đặc khu Vũng Tàu. Đặc khu Vũng Tàu , nguyên là tỉnh Phước Tuy, nay là tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, cũng lấy luôn cả các đảo Côn Đảo, trước thuộc Hậu Giang. Thị xã tỉnh lỵ Đồng Nai là Biên Hòa. Bắc giáp Lâm Đồng, Đông giáp Bình Thuận, Nam giáp Bà Rịa – Vũng Tàu, Tây giáp hai tỉnh Bình Dương, Bình Phước và thành phố Sài Gòn ( TP Hồ chí Minh ). Tỉnh lỵ Biên Hòa nằm vào khỏang vĩ tuyến 1107’ Bắc và kinh tuyến 1070 Đông, cách Sài Gòn 32 km ( 20 dặm Anh ) về phía Đông nối liền nhau bằng quốc lộ số1; cách Hà Nội 1684 Km cũng theo quốc lộ số1, cách Đà Lạt 278 km, cách Vũng Tàu 95 km, cách Cần Thơ 198 km . Xe Lữa Tốc Hành Thống Nhất - Express Train Hà Nội- Sài Gòn, ngưng ở Biên Hòa.
Tỉnh Đồng Nai hiện nay gồm 10 quận: Cẫm Mỹ, Định Quán, Long Khánh, Long Thành, Nhơn Trạch, Tân Phú, Thống Nhất, Trảng Bom, Vĩnh Cửu và Xuân Lộc. Dân số năm 1995 là 1884 800 người, năm 1999 là 1 989 500 người, năm 2004 là 2 174 600 người, năm 2009 là 2 483 221 người. Năm 2011 là 2 665 100 người; Nữ 1 353 900 , có phần đông hơn Nam 1 311 200. Mức tăng gia năm 2011 là 12 % nên năm 2012 dân số đã gần 3 triệu người và năm 2014 có thể đã trên 3.5 triệu người ( ? ) . Đa số là tộc dân Kinh, một số nhỏ là các tộc dân gốc Hoa , X(s)tiêng, Cho Ro ( Mạ, tập trung ở quận Định Quán ), Tày, Nùng, Chàm …
Dân số thị xã tỉnh lỵ Biên Hòa, năm 1989, đã trên 300 000 người, năm 2005 tăng lên đến 541 495 người, năm 2007 là 604 458 người và năm 2009 là 701 194 người. Cuối tháng chạp năm 2012, đã trên 1 triệu người, cho một diện tích tỉnh lỵ là 268 km2 ( 103 dặm Anh vuông ) . Tọa độ : 100 57’ vĩ tuyến Bắc và 1060 49’ kinh tuyến Đông . Biên Hòa cách TP HCM- Sài Gòn 32 km về phía Đông , nối nhau qua Quốc Lộ số 1. Thị trấn Nhơn Trạch năm 2015 đã là 265 000 người , có lẽ sẽ có 600 000 người( ? ) năm 2020 . Còn thị trấn Long Thành chắc cũng sẽ đạt 180 000 – 200 000 người năm 2020 .
Đôi chút Xuôi dòng lịch sử
Đồng Nai xứ sở lạ lùng,
Dưới sông sấu lội , trên bờ cọp um
Ca Dao miền Nam
Trước khi hình thành và phát triễn Nam Kỳ Lục Tỉnh, vùng đất hoang vu này, từ đầu Công Nguyên đến thế kỷ thứ 7, thuộc về vương quốc Phù Nam, bao gồm một vùng đất bao la trải dài từ lưu vực sông Cửu Long đến sông Mênam Thái Lan ( tên mới của Xiêm La từ năm 1939 ) xuống tận các đảo Mã lai ( Lâm Văn Bé, Dòng Việt số 17 năm 2005 ). Tháng 11 năm 1998, ở làng Phú Mỹ huyện Cát Tiên ( Công viên Quốc Gia Cát Tiên thiết lập tháng 12 năm 1998, gồm ba công viên cũ là Nam Cát Tiên, Bắc Cát Tiên và Cát Lộc, nằm trong địa hạt của 3 tỉnh: Đồng Nai, Lâm Đồng và Bình Phước) khám phá ra một ngôi làng cỗ, tuổi đã 2500- 3000 năm. Đây là một phức tạp di tích gồm đền đài, tháp và rất nhiều di vật tiền sử, chứng tỏ có sự lẫn lộn của một văn hóa Phù Nam, (sau này gọi là văn hóa Khmer, ta gọi là Chân Lạp ) hay có thể là một văn hóa khác ( ? ) ở miền Nam và văn hóa Champa. Trong số di vật có nhiều tượng thờ như Linga – Yoni, những vật liệu linh thiêng thờ cúng, dùng các bộ phận sinh dục con người làm biểu tượng. Có một Linga cao 2.1 m là một di vật lọai này lớn nhất thế giới. Ngòai ra còn nhiều dấu tích khác chứng tỏ Cát Tiên cũng có thể là một thánh địa của Vương Quốc Phù Nam, xây dựng cách đây 2000 năm. Thật ra dưới thời Pháp thuộc, lưu vực sông Đồng Nai với các địa điểm như cù lao Rùa, Cù Lao Phố, bến Đò… đã được các nhà khảo cỗ ( Cartailahac 1888, Grossin 1902, Loesh 1909, Barthère và Ripelin 1911, Malleret và Jansé 1937) … khai quật nhiều lần, nhiều nơi, tìm được hàng ngàn cỗ vật như búa rìu bằng đá, bằng đồng, sắt, xương sọ, dụng cụ đá mài nhẵn … chứng tỏ rằng lưu vực sông Đồng Nai đã có người cư ngụ 4000 – 2500 năm nay rồi, không có lịch sử, không chữ viết ghi chép, nên họ là người tiền sử. Trước thời vương quốc Phù Nam, họ là những con người tiền phong đến khai thác hạ lưu sông Đồng Nai, tạo ra một nền văn minh hái lượm, làm ruộng nước nữa ( Theo Hứa Hòanh, Tập san Đi Tới, số 69 và 70, năm 2003 ) .
Năm 1620, vua Chen Chetta II đến Thuận Hóa xin cầu hôn với công nương ( danh hiệu công chúa là sau khi các chúa đã mất, được truy phong hòang đế ) Ngọc Vạn ( khi trở thành hòang hậu tên là Ang Cuv hay Đam Sát ), con chúa Sải Nguyễn Phước Nguyên. Chúa Nguyễn lợi dụng việc gả con gái này đưa người Việt đi vào lập nghiệp ở vùng đất Phù Nam cũ ở hạ lưu sông Đồng Nai, trên danh nghĩa là đất Chân Lạp, nhưng trong thực tế là đất vô chủ, bởi lẽ từ nhiều thế kỷ, vì sự suy yếu nội bộ, vì chiến tranh liên tiếp với Xiêm La, vùng đất này hòan toàn hoang vu, không có guồng máy cai trị của Chân Lạp. Trước khi người Việt đến, vùng này chỉ có vài mươi nóc nhà người Miên- Môn, theo nhà văn quê quán Biên Hòa Bình Nguyên Lộc còn có thể cả người tộc dân Mạ, hay có thể cả tộc dân Cho Ro, tộc dân X-(S)tiêng ( GiẻTriêng ? ),cả ba thuộc họ Nam Á , ngôn ngữ thuộc hệ Môn Miên ( Khmer) vì ảnh hưởng xưa cũ của hai nước Phù Nam và Chân Lạp. Nguyễn Cư Trinh gọi chung là Côn Man ( Côn Miên), ở trên các gò cao sâu trong rừng vùng Preikor ( Sài Gòn ), sống biệt lập với người Miên ở vương triều. Năm 1623, Chúa Sải cho đặt hai trạm thu thuế ở Prei Nokor ( Sài Gòn, nay ở khỏang quận 5 và Kas Krobei ( Bến Nghé, nay ở khỏang quận 1). Trịnh Hoài Đức cũng xác nhận trong Gia Định Thành Thống Chí là dân các tỉnh phía Bắc xứ Đàng Trong đã vô Mô Xòai từ đời các chúa Nguyễn Hòang 1558- 1613, Nguyễn Phước Nguyên ( 1613- 1635 ). Sử ghi là năm 1665, có độ 1000 người Việt vào lập nghiệp ở vùng đất mới này ( cũng theo Lâm Văn Bé, Dòng Việt 2005 ).
Lúc này, nhà Minh bên Tàu cũng đang mất nước cho Mãn Thanh, các chiến sĩ Minh ưu tú phẩn uất bỏ đi tìm độc lập tự do, ngòai thế lực kẻ thù. Năm 1679, Trấn thủ Quảng Đông là Dương Ngạn Địch với Phó Tổng binh Hòang ( Hùynh ) Tiến, Tổng binh châu Cao, châu Lôi, châu Liêm là Trần Thượng Xuyên, Phó Tổng Binh là Trần An Bình đem 3000 quân và 50 chiến thuyền chạy thẳng vào của Tư Hiền ( Tư Dung ) và Đà Nẳng muốn đến xin làm thần dân chúa Nguyễn. Chúa Hiền Nguyễn Phước Tần dung nạp bọn họ, cho bọn Dương Ngạn Địch ở Mỹ Tho, Trần Thượng Xuyên vào cửa biển Cần Giờ, định cư ở Bàn Lân xứ Đồng Nai, Cù Lao Phố Biên Hòa, khai khẩn và lập phố phường buôn bán: thuyền buôn của người Thanh và các nước phương Tây, Nhật Bản, Java ( Nam Dương ) đi lại thông thương , phồn thịnh. Cù Lao Phố nằm phía Đông tỉnh lỵ Biên Hòa, tên cũ là Đông Phố. Người Tàu không phát âm được chữ Đ của Đồng Nai nên gọi là “ Nông Nại đại phố”, nhưng thế kỷ trước còn có tên là “ cù châu”. Cù châu không có nghĩa là cù lao, nhưng lúc bấy giờ dân gian người Việt tin rằng phía dưới cù lao có con hoa cù tức con rồng có sừng, do đó mới gọi là là cù châu. Như vậy có nghĩa là người Việt đã đến định cư ở đây, vì chính Điều Khiễn Nguyễn hửu Dõan , năm 1748, dụng binh ở Chân Lạp, thấy đất phủ Gia Định phần nhiều là đất bùn lầy chưa có đường bộ nên sai đắp một con đường thẳng từ phía Bắc Cầu Sơn đến Mỗi Xuy ( Bà Rịa ngày nay ) gọi tên là “Thiên Lý Cù” - đường ngàn dặm con rồng có sừng rong ruổi tiến mở mang đất nước), tiền thân của đường số 51 Bà Rịa- Biên Hòa ngày nay ? Đó chỉ mới là thiên lý cù phía bắc đến năm Gia Long thứ 14 , năm 1815 mới đắp thiên lý cù phía Tây , tiền thân của đường số 22 Biên Hòa – Gia Định – Trảng Bàng- Gò Dầu- Mộc Bài hay Gò Dầu- Xa Mát – Tây Ninh ở Việt Nam , nối dài quốc lộ số 1 Căm Bốt từ Svay Riêng lên đến Nam Vang ( Phnom Penh ) ? Người Hoa (Tàu ) hay Minh Hương tập trung ở cù lao Phố lập thành làng Thanh Hà, chuyên nghề thương mãi. Cù lao Phố là đô thị người Hoa đầu tiên ở Việt Nam phát triễn liên tục trên nữa thế kỷ, đóng một vai trò quan trọng xuất nhập cảng cho xứ Đồng Nai. Địa danh Cát Lái, đáng lý phải gọi là “ Các Lái “ để chỉ danh một bến đò, một chỗ họp chợ của người buôn bán sĩ, các ghe thương hồ chở chén đĩa, lu hũ , đá tán kê nhà, cối xay bột… đưa về miền Tây, đồng bằng Sông Cửu Long. Hơn 60 năm thành lập, Nông Nại đại phố sầm uất hơn bao giờ hết. Nhưng năm 1747, đánh dấu một biến cố lớn cho cù lao Phố. Một tên cầm đầu bọn khách thương người Phúc Kiến là Lý Văn Quảng, dậy lòng tham cùng 300 đồng đảng tự xưng là “ Nông Nại đại phố vương” định chiếm Nông Nại, tổ chức như một triều đình, mở cuộc đánh úp dinh Trấn Biên, hạ sát trấn thủ dinh là Khâm sai đại thần , Cẩn Thành Hầu Nguyễn Cao Cẩn. Phó tướng dinh Trấn Biên là Lưu thủ Cường, tước Cường Oai Hầu, rút ván cầu “ Chợ Đồn” bắc ngang giữa cù lao Phố và đồn canh bờ sông, cố thủ. Chúa Vỏ được tin cấp báo, sai Cai cơ Tống Phúc Đại, tước Đại Thắng Hầu, đang đóng ở Mô Xòai, đem binh cứu viện. Tống Phước Đại bắt được Lý Văn Quảng cùng đồng bọn là 57 người. Lớp còn lại bỏ trốn vào rừng hay theo sông Đồng Nai xuống Tân Bình. Nông nại đại phố phục hồi sinh lực, phát triễn thêm vài mươi năm nữa. Gần hai mươi năm sau, tàn quân rã ngũ có hai tên là Lý Tài và Tập Đình biết vỏ nghệ, khôn ngoan, được dân du thủ du thực tôn làm anh chị, thuộc phe Thiên địa hội “ Phản Thanh Phục Minh”. Trước hết bọn Lý Tài, Tập Đình theo Tây Sơn. Nhưng khi Đông Cung Dương từ Quảng Nam chạy vào Qui Nhơn, Tài và Đình đến xin theo phò. Đang lúc sa cơ, Đông Cung đải Tài và Đình như thượng khách và khi Đông Cung tới Gia Định hợp với quân của chúa Định , lấy hiệu là Tân Chính vương khi chúa Định nhường ngôi, Lý Tài được phong làm đại nguyên sóai. Làm cho quân Đông Sơn do tướng Đỗ Thành Nhơn phò tá chúa Định vào Gia Định trước Đông cung, bất mãn. Hay tin ấy, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ kéo đại quân vào đánh, tới núi Châu Thới bắt được Lý Tài giết ngay. Huệ đuổi theo quân Nguyễn bắt được Tân Chính Vương ở Ba Vát, Thái Thượng Vương ở Cà Mau, đem về Sài Gòn hành hình. Nguyễn Nhạc vào Nam, khi hay tin viên hộ giá thân tín của mình bị giết, nổi trận lôi đình, ra lịnh tàn sát tất cả người Hoa ở cù lao Phố ( vì Nhạc còn nghi thêm là người Hoa đã giúp lương thực cho các chúa Nguyễn ). Linh mục Castueras, có mặt tại Chợ Quán ngày 7 tháng 7 năm 1782, cho biết có gần 4000 người bị quân Tây Sơn giết. Sử quan nhà Nguyễn, nhất là Trịnh Hoài Đức, có thể tăng cao số nạn nhân Hoa gấp ba lần. ( theo Hứa Hòanh ở tập san Đi Tới nói trên). Cù lao Phố bị quân Tây Sơn phá tan hoang, khi trung hưng lại, người ta trở về, nhưng dân số không còn bằng một phần trăm lúc trước ( Theo Đại Nam Nhất Thống Chí). Những người Hoa còn sót lại chạy về Gia Định, gầy dựng lại cảnh Chợ Lớn, có mòi sung túc thịnh vượng hơn cù lao Phố trước ( “Sài Gòn năm xưa”của Vương Hồng Sển )
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh tại Cù Lao Phố
Trở lại năm 1689, Chúa Minh Nguyễn Phước Chu sai Thống Xuất Nguyễn hửu Kính ( hay Cảnh ) làm Kinh Lược xứ Đồng Nai, lúc đó có tên là Đông Phố, chia đất Đông Phố để cai trị, theo kiểu Đàng Trong. Lấy xứ Đồng Nai đặt huyện Phước Long, lập dinh Trấn Biên . Như vậy trên phương diện quân sự, quốc phòng, gìn giữ biên cương, dinh Trấn Biên nguyên là dinh Phú Yên , nay đã tiến xa vào Nam là Biên Hòa. Lấy xứ Sài Côn, đặt huyện Tân Bình, lập dinh Phiên Trấn ( tức là Gia Định ). Và đặt phủ Gia Định thống thuộc hai dinh Trấn Biên, Phiên Trấn. Lúc này, cả hai huyện Phước Long và Tân Bình, theo Nguyễn hửu Cảnh thống kê, đã mở rộng đất ngàn dặm, dân số hơn 4 vạn hộ ( theo Đại Nam Thực Lực Tiền Biên, quyễn IV). Dân Việt như thế đã lên đến cả trăm nghìn người, đông đúc hơn dân quân binh tướngTrần Thượng Xuyên, đến xứ Đồng Nai 10 năm trước đó ). Chúa Minh Nguyễn Phúc Trăn ( Chu ) sai chiêu mộ thêm lưu dân từ Bố Chính trở vào Bình Thuận đến ở đây, thiết lập xã, thôn, phường, ấp, chia ranh giới, khai khẩn ruộng đất, đánh thuế tô, thuế dung, làm bộ đinh, bộ điền (Phan Khoang , Việt sử xứ Đàng Trong, xuất bản năm 1967 ).
Văn miếu Trấn Biên
Năm 1739, vua Chân Lạp ( Căm Bốt ) Nặc Nguyên, muốn chiếm lại Hà Tiên, mà một di dân nhà Minh là Mạc Cửu đồng thời với tướng Dương Ngạn Địch đã qui phục chúa Nguyễn lảnh chức Tổng Binh Hà Tiên có con là Mạc Thiên Tích nối nghiệp cha, đã phát triễn phồn thịnh, nên Hà Tiên trở thành vật thèm muốn của Xiêm La và Căm Bốt. Chúa Vỏ Vương sai Nguyễn Cư Trinh sang đánh vua Chân Lạp. Nặc Nguyên bỏ chạy, xin nộp đất miền Nam Gia Định là Tầm Bôn và Lôi Lạp giảng hòa.
Năm 1768, cuộc Nam Tiến của dân Việt Nam kể như chấm dứt. Lảnh thổ Nam Kỳ lúc này được chia thành 3 tỉnh : tỉnh Đồng Nai bao gồm các vùng đất miền Đông Nam Bộ, tỉnh Sài Gòn bao gồm các vùng đất từ sông Sài Gòn đến cửa Cần Giờ và tỉnh Long Hồ bao gồm các vùng đất miền Tây Nam Bộ. Năm 1808, dưới thời Gia Long, Nam Kỳ được gọi là Gia Định Thành bao gồm 5 trấn: Hà Tiên, Vĩnh Thạnh, Định Tường, Phiên An, Biên Hòa. Năm 1834, dưới thời Minh Mạng 5 trấn được biến thành 6 tỉnh. Năm 1988 thời Pháp thuộc, Nam Kỳ được chia ra làm 20 hạt, rồi 20 tỉnh, trong đó có tỉnh Biên Hòa. Năm 1954, Miền Nam, sau hiệp định Genève để chỉ vùng đất Việt Nam Cộng Hòa Nam vĩ tuyến 17, gồm 40 tỉnh trong đó vẫn còn tỉnh Biên Hòa. Thời Đệ Nhất Cọng Hòa, vùng miền Đông Nam Phần lập thêm nhiều tỉnh nhỏ, còn ít dân, để nhận dân di cư Miền Bắc, thiết lập nhiều địa điểm dinh điền có lõi là dân Bắc di cư, phỏng theo phương thức dinh điền xưa cũ và kế sách tầm ăn dâu của Nguyễn Cư Trinh, kèm theo mục tiêu chiếm giữ ( ? ) các chiến khu kháng chiến cũ ( Các chiến khu C, D, Dương Minh Châu- Tam Gíác Sắt …) , thời Pháp chiếm đọat lại Việt Nam- Đông Pháp, Việt Minh vẫn còn để lại hệ thống tổ chức cán bộ, những người theo họ hay có cảm tình với họ, không đi tập kết ra Bắc. Bên cạnh tỉnh Biên Hòa cũ, có thêm các tỉnh Long Khánh, một phần các tỉnh Phước Thành, Bình Long, Bình Tuy …. Sau 1975, tỉnh Đồng Nai được thiết lập và thị xã Biên Hòa trở thành tỉnh lỵ tỉnh Đồng Nai.
Thời Cọng hòa, Biên Hòa phát triễn thành ngọai ô chánh yếu của Sài Gòn, lúc đó là thủ đô Cọng hòa miền Nam. Sau Thế chiến Đông Dương thứ nhất, hàng chục ngàn dân Bắc và miền Bắc Trung Bộ di cư tị nạn, đa số là dân Công Giáo Cơ Đốc , tái định cư ở Biên Hòa , như thể là thành phần của Chiến dịch Tìm Tự Do. Trong thời Chiến Tranh Việt Nam, Không lực Hoa Kỳ hoạt động từ Căn Cứ Không Quân BiênHòa , ngay cạnh thành phố Biên Hòa . Pháo kích súng cối nhắm các mục tiêu Hoa Kỳ và ARVN , thường phát khởi từ các quận - phường cư xá Biên Hòa. Cũng như đa số các vùng khác , Biên Hòa hậu chiến trải qua một suy thóai kinh tế nặng nề giữa các năm 1975 và giữa cuối thập niên 1980. Phần lớn là vì đây là nơi tập trung lớn các dân tị nạn cũ và con cháu họ đã rời bỏ miền Bắc Cọng sản giữa thập niên 1950, Biên Hòa là vị trí một chống đối chánh quyền Cọng Sản kích thước nhỏ , những tháng kế tiếp Việt Nam Cọng Hòa thất thủ. Vào thập niên 1980, Chánh phủ Cọng Hòa Xã Hội Việt Nam tung ra chánh sách “ Đổi Mới” cải cách kinh tế và nền kinh tế Biên Hòa trổi dậy. Biên Hòa và các khu lân cận đón nhận tư bản đầu tư ngọai quốc số lượng lớn lao và đô thị hóa mau chóng.Về phía tiêu khiển, thị xã Biên Hòa gồm nhiều công viên tiêu khiển , hộp đêm và tiệm ăn dọc theo sông Đồng Nai. Ngành xây cất khu cư xá đã có nhiều chu kỳ phồn thịnh từ giữa thập niên 1990, dựng lên nhiều nhà kiểu Tây Phương và biệt thự- vi la …
Khí hậu, Thủy văn ( Sông ngòi )
Tỉnh Đồng Nai nằm vào vùng gió mùa nhiệt đới, cho nên bị ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc và gió mùa Tây Nam. Tỉnh nhà còn bị ảnh hưởng của khí quyễn nhiệt đới Thái Bình Dương, từ tháng 4 đến tháng 10. Khí hậu chia ra hai mùa rỏ rệt. Mùa mưa kéo dài từ tháng 3 hay tháng 4 đến tháng 11 và mùa nắng ( mùa khô ) từ tháng 12 đến tháng 3, tháng 4 năm tới. Nhiệt độ trung bình từ 23.9- 29.0o C, nghĩa là thấp ( mát mẽ ) hơn mức tiêu chuẩn các vùng nhiệt đới ( 26-300C ) nhiều. Trái lại lượng mưa vẫn nhiều 1500- 2700 mm . Trung bình nhật chiếu 4-9.5 giờ/ ngày, nhưng không bao giờ quá 11.5 giờ/ngày kể cả những ngày nóng nhất và nắng nhất. Tổng số ngày mưa trong năm 120- 170 ngày ( tiêu chuẩn cho vùng nhiệt đới là 150- 160 ngày). Ẩm độ trung bình l80- 82% và ẩm độ mùa khô thấp hơn mùa mưa khỏang 10-12% . Tùy mỗi huyện, ẩm độ biến thiên, khác nhau rất nhiều. Khí hậu tỉnh Đồng Nai thuận lợi so với nhiều tỉnh khác nước nhà, để phát triễn nông nghiệp, công nghệ, văn hóa và du lịch.
Tỉnh Đồng Nai có những nguồn sông như nguồn sông Ray chảy về Bà Rịa – Vũng Tàu hay nguồn sông Dinh chảy về cửa Hàm Tân – Bình Thuận, tổng cọng là 60 sông lớn nhỏ, kênh rạch . Nhưng hệ thống sông Đồng Nai với các nhánh lớn, bên trái là sông La Ngà ( giữa đường Biên Hòa-Long Thành là một nhánh nhỏ là sông La Dương ), bên phải là sông Bé và nhánh nhỏ hơn hai nhánh vừa kể, chảy Thủ Dầu Một - Bình Dương rồi đổ vào sông Đồng Nai gần Nhà Bè , mới thật là quan trọng.
Tuy sông Đồng Nai chỉ được xem là sông đứng hàng thứ ba ở Việt Nam, vì lưu vực trong nước chỉ là 37394 km2( lưu vực tòan bộ là 42 666 km2 ), sau sông Hồng lưu vục rộng 61 300 km2 ( tòan bộ 143 000 km2) và sông Mê Kông ( Cửu Long trong địa phận Việt Nam ) 71 000 km2( toàn bộ 795 000 km2 ), nhưng chiều dài chảy trong nước lại đứng hạng nhất 635 km trước sông Hồng 566 km; còn sông Cửu Long đứng hạng 8, dài 230 km sau cả sông Mã 410 km, sông Ba- Đà Rằng dài 388 km… , chỉ trên sông Thu Bồn hạng 9 dài 205km . ( Thái Công Tụng, Vietnamologica , 2005 ). Phần sông Đồng Nai chảy qua tỉnh Đồng Nai ngày nay chỉ dài 294 Km .
Tên cũ của sông Đồng Nai là sông Phước ( Phước ) Long , còn có tên là sông Hòa Quí. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí ( bản dịch của Phạm Trọng Điềm 1997 và Hòang Đỗ sưu tập 2003 ), có đôi chút địa lý không hòan tòan đúng theo phân chia hành chánh hay gọi tên ngày nay, sông Đồng Nai bắt nguồn từ các động Man tỉnh Bình Thuận, hợp với sông La Nha ( La Ngà ), chuyễn về phía Tây qua núi Thần Qui đến ngã ba sông Bé bẻ về phía Đông hợp lại thành sông lớn, giữa sông nổi Hòa, chảy xuống làm sông Đồng Môn, hợp với sông Bình Tân huyện Bình An làm sông Phước Bình, vào phủ Phước Tuy đến sông Ngã Bảy, hợp với sông Kí huyện Long Thành và sông Hưng Phước huyện Phước An mà ra biển ở cửa Cần Giờ. Trước Biên Hòa cũ ( nay là Bà Rịa ) còn có sông Lai ở phía Đông Bắc huyện Long Khánh nguồn ra từ xa Bảo Chánh chảy vào sông Xích Lam ở phía Đông huyện Phước An, chảy ra cửa biển Xích Lam. Theo địa lý ngày nay hơn, sông Đồng Nai bắt nguồn từ hai dòng sông nhỏ trên Cao nguyên Lâm Viên ( Lang Biang ), cao 1500 m trên mặt biển. Nguồn phía Tây Đà Lạt là suối ( sông ?) Đá Dựng ( Đa Đung, Đa là tên địa phương gọi sông, suối ), trên đó có đập Ankróet ở suối Vàng. Nguồn phía Đông là sông Đa Nhim với một hồ nước nhân tạo ở Đơn Dương ( Dran) của đập thủy điện Đa Nhim, nước theo hai đường ống khổng lồ, từ Đèo Ngọan Mục cao 1100m, đổ xuống dưới chân đèo tại nhà máy phát điện Krong Pha. Đa Nhim bắt nguồn từ Nam Trường Sơn, trên Nhơn Hà, giáp giới hai tỉnh Lâm Đồng và Khánh Hòa, bọc một rặng núi có đỉnh cao 2275m, phía trên thác Prenn. Hai nguồn suối nhỏ trong rừng sâu này chảy len lõi giữa các hốc đá, các triền núi, song song theo hướng Bắc Nam tới địa phận quận Di Linh, tỉnh Lâm Đồng. Tới đây nguồn phía Đông đổi dòng, nhập với dòng phía Tây tạo ra sông Đồng Nai, trong địa phận tỉnh Lâm Đồng – Bảo Lộc ( Blao ), nhưng vẫn còn ở ngòai địa phận tỉnh Đồng Nai ngày nay. Gần thị xã Bảo Lộc có thác Đăm Bri, trước đây hoang vu vì thiếu an ninh, nay đã tu bổ sửa sang làm nơi đón khách du lịch ( và dự trù làm thêm ở đây một đập thủy điện nữa ? ). Thác Đăm Bri tiếp tục chảy xuống đèo Bảo Lộc tạo thành suối Tiên ở lưng chừng đèo. Rồi dòng sông tiếp tục thêm trong sâu, vào địa phận tỉnh Đồng Nai ở Định Quán, Kiệm Tân, Bến Nôm, Cây Gáo v.v… Giữa các làng này, dòng sông có nhiều đá ngầm chắn nước dài khỏang 20 Km, mùa mưa dòng nước chảy xiết ầm ầm suốt ngày đêm như tiếng gọi của rừng thẳm. Ở thượng nguồn , có nhiều thác nước đẹp đẽ, thường do các phay ( fault , faille ), chỗ nứt rạn, gảy sụp kẻ đất nẽ địa chất gây ra. Như thác Gougah, thác Liên Khàng gần Đức Trọng của sông Đa Nhim, thác Pongour hùng vĩ cao nhất Đà Lạt do nguồn Đá Dựng tạo ra, các thác Datanla, Prenn, Cam Ly nhận nước hồ Than Thở , hồ Hồ Xuân Hương. Đến thác Trị An, sông Đồng Nai mới chảy trên một địa thế tương đối bằng phẳng, thoai thỏai từ Tây sang Đông, dòng sông khá sâu, tùy đọan, nước chảy chậm hòa hỏan, ghe tàu nhỏ đi lại dễ dàng. Trước khi tới tỉnh lỵ Biên Hòa , sông Đồng Nai chia ra làm hai nhánh bao bọc lấy cù lao Tân Chánh, cù lao Rùa ( hình dáng như con rùa vì có ngọn đồi cao 17m ), cù lao Tân Triều ( có một lọai trái bưởi “ Biên Hòa” nhỏ da màu vàng có khi gọi là bưởi ổi, ngọt thanh nổi tiếng ). Cù lao Rùa đánh dấu một giai đọan phát triễn văn hóa của lưu vực sông Đồng Nai, còn ghi đậm trong tiến trình các thời tiền sử và lịch sử. Chính tại cù lao Rùa, các nhà khảo cỗ đã khai quật nhiều di tích tiền sử với hàng ngàn cỗ vật thời kỳ đồ đá mới, đang bước qua sơ kỳ đồ đồng và đồ sắt, đã nói qua ở trên. Cho nên có nhiều câu hỏi cho rằng có phải chính họ đã tiến xuống Nam, chứ không phải ngược lại, tạo ra nền văn minh vương quốc Phù Nam. mà cảng Ốc Eo gần chân núi Ba Thê, biên giới hai tỉnh An Giang và Kiên Giang, trước khi bị phù sa bồi đắp xa hẳn biển Tây, là thị trấn đầu tiên của bán đảo Đông Dương tiếp xúc với văn minh Hy Lạp, La Mã ?
Sông La Ngà là nhánh lớn bên trái của sông Đồng Nai, bắt nguồn ở cao nguyên Di Linh -Lâm Đồng, cao 1600m. Trước đập Trị An cách tỉnh lỵ Biên Hòa 50 Km, là đập thủy điện lớn nhất miền Nam , trên sông Đồng Nai, sông La Ngà đổ vào hồ La Ngà, nay là một thành phần của hồ Trị An. Còn phía thượng lưu thì ngòai các đập thủy điện ( Hàm Thuận, Đa Mi …), sông La Ngà còn có công dụng cấp nước cho các huyện tỉnh Bình Thuận ( Đức Linh, Tánh Linh, Hàm Thuận… ) và tăng nước cho thủy điện Trị An vào mùa khô.
Sông Bé là nhánh lớn bên phải của sông Đồng Nai, cũng bắt nguồn từ cao nguyên M’Nong – Đắc Nông chảy qua tỉnh Bình Phước ( thời Cộng Hòa là hai tỉnh Bình Long và Phước Long ), chiều dài khỏang 360 km, rồi đổ vào sông Đồng Nai ở phía dưới thác Trị An.
Sông Sài Gòn, phần lớn chảy qua tỉnh Bình Dương và đổ vào sông Đồng Nai ở gần Nhà Bè. Khúc sông Nhà Bè này có một dòng thóat lưu tách ra gọi là sông Lòng Tảo( Long Tàu ? ), chảy ra Biển Đông ở cửa Sòai Rạp thuộc địa phận Thành Phố Sài Gòn (TP HCM ). Còn tả ngạn dòng sông Đồng Nai- Sài Gòn ở huyện Nhơn Trạch ( ? ) bọc phía Bắc rừng sác Cần Giờ mới là ranh giới tỉnh Đồng Nai?
Địa hình, đất đai
Như vừa tả sơ qua, địa hình tỉnh Đồng Nai gồm cả thung lũng, đất thấp đồng bằng và đồi núi. Tỉnh Đồng Nai gồm hai hòn núi nhô lên là núi Châu Thới gần Biên Hòa và núi Chứa Chan ( dân địa phương gọi là núi Gia Ray), cao 859 m gần Xuân Lộc. Núi Châu Thới ngày nay không còn nữa, bị san phẳng lấy đá tán nhỏ trải đá trộn lẫn cát, nhựa đường… theo kỷ thuật mới, hot nick ( ?) hảng thầu Mỹ RMK áp dụng, làm xa lộ Sài Gòn – Biên Hòa thời đệ nhất Cộng Hòa ( ? ). Cuối thời kỳ Pleistocen, cách nay chừng 50 000 năm, tỉnh Đồng Nai cũng như miền Đông Nam Phần và đồng bằng sông Cửu Long còn chìm trong biển cả. Về đệ tứ kỷ, phía Đông đồng bằng này, khối móng đá gốc thời ky địa chất Trung Sinh ( Mesozoique ) được nâng lên cùng lúc với các rặng núi phía Nam Trung bộ chừng 6000 năm nay vào thời kỳ Holocen muộn ( thời kỳ Holocen khởi đầu 10 000 năm trước Công Nguyên. Cùng lúc với sự nâng lên thì macma bazan hỏa diệm sơn cũng phun lên, vào tuổi Pleistocen muộn – holocen sớm, bao phủ các phù sa bên trên khối móng đá gốc Trung Sinh. Lớp phù sa cỗ sinh cũng như các phún thạch bao phủ lớp này rất rộng, lan đến phía Kratié- Kompongcham, Căm Bốt. Như chúng ta đã biết, phần phía Tây bị lún xuống tạo ra một vịnh biển: phù sa sông Cửu Long bồi đắp trên vịnh biển, với sự rút lui của mực nước biển để tạo thành châu thổ sông Cửu Long ngày nay.
Đất đai tỉnh Đồng Nai thuộc hai nhóm chánh là đất xám Acrisols : hoặc bạc màu trên phù sa cổ - Haplic Acrisols , phẩu diện thường có phân tầng rỏ rệt theo màu sắc loang lỗ đỏ vàng xen lẫn các ổ kao lanh trắng, hàm lượng hửu cơ và các chất dinh dưỡng thấphoặc đất xám gley- gleyish Acrisols vùng gò đồi, acid, nghèo hửu cơ , nghèo dưỡng liệu ; và nhóm đất nâu đỏ trên đá basan, gọi là đất ferralit hay đất latosol nâu nhóm ferrasols theo phân lọai FAO. Đất latosols này thường gặp nhiều ở Xuân Lộc và Gia Kiệm . Đất ferrasols phì nhiêu hơn đất xám, sức giữ nước tốt hơn. Ngoài hai nhóm chánh này còn có thể gặp đất feralit vàng hay đỏ vàng – Ferralic Acrisols, địa hình, độ dốc và cao độ khác nhau, có phản ứng chua, tầng đất mỏng dễ bị hiện tượng xói mòn; đất feralit nâu vàng trên phù sa cổ có kết von và đá ong, sâu 20 – 30cm là đã gặp tầng đá ong ( đá ong “Laterit Biên Hòa”) có lớp cuội tròn nhẵn kích thước khác nhau, chứng tỏ dấu vết của phù sa cỗ, hàm lượng dinh dưỡng thấp có đá ong kết von, nhưng vì đất ở địa hình thấp dễ tưới nước, nên cũng có thể trồng được nhiều lọai cây lương thực và cây ăn trái; đất đen trên đá basan tên khoa học là Luvisols, rất phì nhiêu nhờ khả năng trao đổi cation và độ bazờ rất cao, và đặc biệt là các đất phù sa- fluvisols ven các dòng sông Đồng Nai, La Ngà , Sài Gòn…
Danh lam, Thắng cảnh
Thắng cảnh thiên nhiên đáng kể ra trước nhất là phong cảnh hửu tình dọc theo sông Đồng Nai mà thượng nguồn ở Tây Nguyên dài hơn 480km, gần gấp đôi dòng sông chảy ở địa phận tỉnh nhà. Hai bên bờ sông đều có nhiều làng xinh đẹp. Xung quanh vẫn còn nhiều động vật và thực vật đặc hửu ( cẩm lai Đồng Nai, gõ đỏ - gà te, bằng lăng… ), phong phú . Dân chúng vùng núi Bửu Long khi lớn lên đã nhận ra ngay hai cù lao Rùa và cù lao Tân Triều sừng sửng trước mặt. Đứng bên này dòng sông, dẫu các cù lao không mấy xa xôi, nhưng không có chiếc cầu nào bắc sang cả. Chỉ có những chiếc đò chèo chậm chạp chở người dân quê nặng ân tình, nối đôi bờ bến nước. Những buổi trưa hè con đò uể ỏai im lìm nằm đợi khách trên bến vắng ( Theo mô tả của Hứa Hòanh, tạp chí Đi Tới , 2003 ). Nay thì đã có những chuyến tàu thủy dạo sông những khúc không có đá ngầm, giao thông được. Không rỏ nay đã có cầu nào bắc qua các cù lao chưa, vì hệ thống đường xá tỉnh nay đã dài hơn 3339 km, và 100 % đường làng, xe hơi đều tới được trung tâm. Cũng như nhiều nơi khác, đây là phần đất quê hương từ năm 1945 đến đầu thập niên 1990 , khi thì hiền hòa êm ả, khi thì lữa khói ngập trời. Dân gian chia rẽ thành hai phe chống đối giết lẫn nhau vô lối, một bên với súng ống Nga - Tàu , một bên với súng ống Mỹ và đồng minh ( Đại Hàn, Úc…). Ngay cả tại thị xã Biên Hòa, sân bay quân sự Hoa Kỳ, theo tài liệu phái bộ quân sự Úc, đồng minh Hoa Kỳ ở chiến tranh Việt Nam, thiết lập giữa thập niên 1960 ở ngọai ô thị xã Biên Hòa thường bị móc chê của đối phương ( Việt Minh, tên của mặt trận cai trị miền Bắc trước đó và sau 1962 là Việt Cộng - Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam miền Bắc dựng lên), núp lén ở các nhà theo hay có cảm tình Việt Minh - Việt Cọng tại trong thị xã Biên Hòa, bắn phá nhiều lần. Trên cù lao Rùa, có chùa Khánh Sơn , di tích lịch sử, xây cất đã trên 100 năm. Chùa nép mình dưới các hàng Sao đen Hopea odorata , họ Dầu Dipterocarpaceae, một cỗ thụ lọai cao nhất nước nhà , có khi đến 40 m, thân trụ thẳng tuột cao chót vót. Từ trên cao nhìn xuống , giữa cù lao thế đất cao hơn mặt nước tới 17 m, trông giống cái lưng con rùa. Còn cù lao Tân Triều là quê hương của lòai bưởi Tân Triều (còn gọi là bưởi ổi ), đặc thù của Cù lao, nhưng khi chín da màu vàng ở miền Nam này như lòai bưởi Năm Roi Quận Bình Minh – Vĩnh Long, hình trái lê thịt không dính vào vỏ múi rất ngọt, thơm phức, đã bán ở nhiều thị trường ngọai quốc, phẩm giá có lẽ trội hẳn bưởi Oroblanco Ca li, có khi vài tiệm Việt kiều bán giả dạng bưởi Năm Roi, không hột khi trồng cây riêng rẽ và hơn 10 hột khi trồng chung chạ trong vuờn . Ngòai Bưởi ổi Tân Triều, Biên Hòa còn có thêm bưởi Đường Lá Cam, dễ bóc tép, ngon ngọt nhiều nước, thơm và thanh, nhưng nhiều hột, khi chín da xanh không vàng nhiều như các lọai bưởi các tỉnh Miền Nam ( bưởi Da Xanh Mõ Cày- Bến Tre , Châu Thành Tiền Giang chẳng hạn…), khác màu vàng các lòai bưởi ngon nổi tiếng miền Bắc hay miền Trung ( bưởi Đoan Hùng quận Đoan Hùng -Vĩnh Phú; bưởi Phúc Trạch, quận Phúc Trạch- Hà Tĩnh; bưởi Thanh Trà, quận Hương Trà- Hương Điền, Huế - Thừa Thiên… ). Thật tế, khi du khách đến làng Tân Triều, cách thị xã Biên Hòa 25 km, khách sẽ được mời thưởng thức một tá lọai bưởi mùi vị khác nhau, trong đó ngọt nhất lại có tên là “Thanh Trà”.
Thứ đến là Thác Trị An, cách tỉnh lỵ Biên Hòa chừng 50km. Thác cao 8m và rộng 30m. Chung quanh là phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ, đẹp đẽ. Dưới chân thác có một số tiểu đảo và các lòng bải đá cuội. Đập thủy điện Trị An công xuất lớn nhất ở miền Nam Bộ 400 000 KW, điện lượng 1.7 tỉ KWH ( KW Giờ ) thiết lập năm 1988, sau đập Đa Nhim trên sông Đồng Nai, thiết lập năm 1974 lúc đó chỉ có công xuất 120 000KW , điện lượng 420 triệu KWH, nay đã có công xuất trên 400 000 KW. Phong cảnh quanh đập Trị An rất rộng và ngọan mục, nên nay là nơi du khách viếng thăm nhiều nhất ở tỉnh Đồng Nai. Hồ Trị An cung cấp nước cho đập Trị An, năm 2001, đã có thêm nước của hai đập trên sông La Ngà là Hàm Thuận ( công xuất 300 000 KW) và đập Đa Mi ( 150 000 KW) nối liền hai hồ Trị An và hồ La Ngà , hòan tòan ở địa phận tỉnh Đồng Nai. Nhưng đập Hàm Thuận thuộc tỉnh Bình Thuận còn có nhiệm vụ làm cho thung lũng Tánh Linh- Đức Linh ( Bình Thuận ) khỏi bị ngập lụt và tưới ruộng vùng này. Chính Tánh Linh là nơi thử đại trà lúa Thần Nông IR8 đầu tiên ở Việt Nam, sau đó mới phổ biến rộng ở đồng bằng Sông Cửu Long. Cũng như ít ai biết là mọi kỷ thuật tân tiến lúc đó về canh tác lúa Thần Nông tiểu điền, phát sinh ở IRRI – Phi Luật Tân, đều được thử nghiệm hoàn tất tại Trung Tâm Huấn luyện Lúa Thần Nông, cù lao Phố -Biên Hòa, với sự góp công đắc lực của các kỹ sư, kiểm sự tốt nghiệp trong nước ở Bảo Lộc hay ở Cao Đẳng Sài Gòn, các năm 1967- 68 . Hồ La Ngà là nơi có thiết lập làng nhà bè nổi nuôi cá dưới bè thâm ngư đầu tiên ở các tỉnh Miền Đông Nam Bộ , chiếu theo kiểu Châu Đốc – An Giang khởi đầu vào thập niên 1960 thời Cộng Hòa. Có lẽ nên cải thiện thêm xây cất các nhà bè, biến chúng thành nơi có những tiệm ăn tân trang lịch sự, sang trọng hơn trên bè kiểu Aberdeen- Hồng Kông, cải thiện cách nấu cá đặc biệt như cá kho tộ, canh lẫu đầu cá …. kiểu Biên Hòa đã nổi tiếng từ lâu( ? ) . Một hồ khác Hồ Long Ẩn ( ? ), ít ai nói tới, rộng 10 ha, cách thị xã Biên Hòa 6km , đã được xem là xinh đẹp, lạ lùng như một Vịnh Hạ Long thu nhỏ .
Công viên Quốc gia Cát Tiên, như đã kể là ba công viên Nam Cát Tiên, Bắc Cát Tiên và Cát Lộc nhập lại tháng chạp năm 1998, thuộc 3 tỉnh Đồng Nai, Lâm Đồng và Bình Phước, do bộ Nông Nghiệp quản trị. Đi trên quốc lộ 20 từ thành phố Hồ chí Minh- Sài Gòn lên Đà Lạt đến cột mốc số 174 ngang qua ngã ba Tân Phú, rẽ về phía tay trái, sẽ nhìn thấy bảng ghi « Công Viên Quốc Gia Cát Tiên – 24 Km ). Diện tích 74 319 ha. Dân gian địa phương còn duy trì nhiều phong tục, tập quán điểm tô nhiều sắc thái văn hóa tộc dân ít người dị đồng, cho nên hút dẫn nhiều nhà khảo cỗ: vì rừng Cát Tiên còn có thể chưa nhiều di tích, di chỉ lịch sử có giá trị đáng được khai quật thêm. Như đã kể trên tháng 11 năm 1988 ở làng Phú Mỹ huyện Cát Tiên một làng cỗ được khám phá tuổi 2500 – 3000 năm, có lúc có thể là Đất Thánh của nền văn minh Phù Nam cách đây 2000 năm ( ? ). Công viên tiếp tục bảo tồn đất đai nguyên thủy và hệ thống sinh thái đa dạng,
. Nghiên cứu của Ban Quản trị Công Viên kiểm kê được 77 lọai thú vật thuộc 28 họ và 10 lòai; 326 lọai chim thuộc 62 họ và 18 lòai; 37 lọai bò sát thuộc 18 họ và 3 lòai ; 133 lọai cá thuộc 28 họ và rất nhiều lọai sâu bọ, côn trùng. Đáng kể nhất là các thú vật Sách Đỏ ghi bị hiểm nguy tuyệt chủng tỉ như Bò banteng, Minh - Gaur, Cọp, Gấu, Chó sói, Khỉ chân đen , Côn , Sếu cổ trắng, Trĩ Đông Nam Á , Cá sấu, Báo hoa mai… , Đặc biệt nhất là một bầy 7- 8 con tây ngu một sừng. Ngày 14 tháng 5 năm 1999, vào 4 giờ sáng, một lọạt máy chụp hình đặt sẳn, đã chụp đựợc một bầy tây ngu trưởng thành, thuộc họ tây ngu Java ( Inđônêxia ). Rừng bảo vệ nguyên thủy Cát Tiên rộng 3500 ha, cách Biên Hòa 150 km. Cho đến nay Công viên Cát Tiên đã phân lọai được 1610 lọai cây thuộc 75 họ, 160 lòai và 724 tông chi thực vật. Nhiều lọai đã ghi vào Sách Đỏ. Len lõi trên đường mòn trải lá rụng, thấy ánh sáng xuyên qua các tán cây, tầng tầng - lớp lớp. Không khí ẩm ướt. Ve sầu kêu rềnh rã khắp rừng .Trước tiên nhìn thấy một cây tùng bách tuổi trên 400 năm. Đi xa hơn một chút, gặp một cây khác : đó là cây đại thụ ( đại mộc ) Bằng Lăng sừng Lagestroemia cornuculata ( L. venusta , L. undulata ), tuổi đã gần 300 năm . Thân chính gốc có đường kính trên 3m , mọc thêm 6 thân phụ màu ngà ngà, hoa to 1.5cm x 1,5 cm có 6 sóng tận cùng như sừng. Và nhiều lọai cây lạ lùng khác: tỉ như cây gõ đỏ - gỏ cà te – tò te tên khoa học là Afzelia xylocarpa ( Pahudia xylocarpa , P. cochinchinensis , họ phu điệp Cesalpinia , đường kính 3.7 m ( cây gõ đõ thân to hơn ở Cẫm Mỹ - Cẩm Đường tỉnh Long Khánh cũ, đã bị quân tham lam gỗ tốt đốn bán mất sau năm 1963 ), cây đề ( si, xanh, gừa ) benjamina fig ( weeping gig ) Ficus banjamina họ Dâu Tằm Moraceae, không có rễ rủ từ nhánh, nhưng bó rễ mọc chạy dài theo dòng sông, cây cao đến 14 m, tán lá rậm rạp cho thể che bóng mát cho 20 người, đồng thời cũng là một lọai cây đa có thân trống rổng, đủ làm dù che cho 3 người núp mưa, tránh nắng. Sông Đồng Nai là biên cương thiên nhiên bọc ba phía Công viên Cát Tiên. Tả ngạn thường là các làng, vườn tượt xây cất sát bờ sông. Hửu ngạn là rừng hoang dã, tán xanh sơ khai. Rất nhiều lòai chim chóc làm tổ trên tán cao. Trong rừng sơ khai nguyên thủy tìm thấy nhiều lòai động vật của vùng thấp Đông Trường Sơn và Tây Nguyên .
Chùa Bửu Phong thiết lập trên núi Bửu Long vào thế kỷ thứ 17, vào năm 1679, cũng chỉ cách thị xã Biên Hòa chừng 7km. Muốn đến chùa, phải leo gần 100 bậc tấm đá. Trong chùa có vài tượng Phật bằng gỗ, chạm trỗ tinh vi, kiểu điêu khắc Á Châu. Trước tiên chùa lợp mái tranh, vách đất, nhưng sau đó hòa thượng Pháp Thông lợp mái ngói trang trọng hơn .Chùa được trùng tu và mở rộng thêm năm 1829. Và gần đây mới được trùng tu thêm.
Cỗ Mộ Hang Gòn ( hay Hàng Gòn ? ) đã được chánh quyền xếp hạng di tích văn hóa lịch sử nước nhà, tuổi đã hơn 2500 năm . Đặc điểm là cổ mộ được xây bằng những tấm bảng đá bằng phẳng, kiểu cỗ điễn hình “ Đôn Men – Dolmen” Đông Nam Á. Cỗ mộ được khám phá ở làng Xuân Tân huyện Xuân Lộc, cách Biên Hòa 80 Km. Đáng tiếc là địa phương cũng như trung ương, đã để hoang phế nhiều năm qua, đền thờ Chưởng dinh Nguyễn hửu Kỉnh ( Cảnh ) ở cù lao Phố ! và cả Văn Miếu Trấn Biên Temple of Literature ?
Phần B : lạm bàn phát triễn tỉnh Đồng Nai - Biên Hòa.
B – I: Phát triễn nông nghiệp
I - a : Từ lúa gạo, cây trái cỗ truyền đến hoa màu cải thiện lúa cao năng Thần Nông, lúa lai ưu thế lai PAC807, bắp lai cao năng , khoai mì cao năng…
Khi chưa tiến nhiều xuống đồng bằng sông Cữu Long, Đồng Nai còn là vựa lúa cho xứ Đàng Trong ( “thứ nhất Đồng Nai, thứ nhì hai huyện Lệ Thủy và Phong Lộc tỉnh Quảng Bình hay Đồng Nai gạo trắng như cò…” ) , cây ăn trái như bưởi Biên Hòa và các chuối Đồng Nai v.v… Thời Pháp thuộc phát triễn cao su và các thời tiếp theo phát triễn mía , đậu nành- đổ tương, cà phê, thuốc lá, tiêu, hột điều -đào lộn hột …, đặc biệt là các hoa màu như bắp ( ngô ) khoai mì ( sắn ), đậu phụng ( lạc ), khoai lang … mà nhiều giống , tinh dòng ( gây, nhân giống vô tính – asexual propagation ), nhiều kỷ thuật cải thiện phát xuất từ Trung tâm Khảo cứu Nông Nghiệp Hưng Lộc , Biên Hòa – Long Khánh, thiết lập thời Đệ Nhất Cọng Hòa, cũng ít người nói tới . Nếu không có chiến tranh Việt Nam ( Nam Bắc ) , thi có lẽ Hưng Lộc đã trở thành Trung Tâm Hoa Màu Nhiệt đới Quốc tế Á Châu ( đặc biệt bắp lai cao năng kiểu Mỹ, khoai mì giống mới Phi Châu hay Nam Mỹ, đập phụng Virginia, Spanish Mỹ Châu hay Phi Châu, đậu nành Mỹ, khoai lang tía Nhật ,nay trồng trên đất xám bạc màu phù sa cỗ….) thay vì ở Thái Lan ( Kasetsart )hay Ấn Độ ( ICRISAT – Hyderabad ) . Cũng như Trung Tâm Lúa Gạo Quốc Tế IRRI, thay vì ở Phi Lụât Tân , đã có thể là ở Việt Nam ( Cần Thơ hay Sóc Trăng ), vì phái đòan lúa gạo FAO quốc tế khi đến các nước lựa chọn vị trí trung tâm lúa gạo, đã để ý tới các nơi này cuối thập 1950-đầu thập niên 1960, trước khi phải lựa chọn năm 1962 Los Banos – Phi Luật Tân, một quốc gia trồng ít lúa gạo hơn Việt Nam . Ngòai các cây công nghiệp lâu năm : cao su , cà phê, hột điều…, Đồng Nai nay tương đối có diện tích lớn nước nhà về bắp, mía, đậu nành ( đổ tương ), đậu phụng ( lạc), khoai mì( sắn ) , khoai lang, thuốc lá … Tuy vậy, vì hai lảnh vực công nghiệp - xây dựng và dịch vụ tăng nhanh từ đầu thập niên 1990, trị giá nông lâm nghiệp ở tam giác tăng trưởng vùng “ đất hứa” địa bàn trọng điểm công nghệ là TP Hồ Chí Minh- Đồng Nai - Vũng Tàu, chỉ còn 12. 5% GDP, so với 39.6 % ở công nghiệp - xây dựng , 47.5 % ở Dịch Vụ. Năm 1995, nông lâm ngư nghiệp tòan cõi Việt Nam là 27, 2% GDP , công nghiệp xây dựng cơ bản là 30.3 % và dịch vụ là 42,5 %, nghĩa là cơ cấu của một nước thu nhập thấp kém.
Tuy tỉ lệ nông nghiệp ở GDP, mỗi ngày mỗi giảm so với hai lĩnh vực kia, Đồng Nai vẫn là một tỉnh miền Đông Nam Bộ có đất đai nông nghiệp lớn. Năm 2001, diện tích đất nông nghiệp Đồng Nai chiếm 300 200 ha, lớn hơn cả Bình Thuận nay xếp vào Miền Đông Nam Bộ diện tích đất nông nghiệp chỉ 208 000 ha, tuy tổng diện tích Bình Thuận lớn hơn 7828km2 . Chỉ sau Bình Phước có diện tích đất nông nghiệp là 421 400 ha và tổng diện tích Bình Phước 6856 km2 cũng lớn hơn. Diện tích đất nông nghiệp vẫn tiếp tục gia tăng, vì đến năm 2007 lên đến 369 195 ha , phải nuôi sống 1. 6 triệu nông dân tỉnh nhà , nghĩa là trên 70 % tổng dân số. Có lẽ nên nhắc lại là đợt di dân thứ ba sau 1975- 80 của đồng bào châu thổ sông Hồng bà con với dân di cư công giáo “Hố Nai- Gia Kiệm” 1954- 56 vào Đồng Nai tuy giàu có hơn hẳn nơi quê cha đất tổ không đất hay ít đất, và không còn mấy trồng lúa, cũng vẫn là nông dân, dân nông thôn.
Tuy thời các chúa Nguyễn Đồng Nai là vựa lúa gạo xứ Đàng Trong, nhưng nay diện tích chỉ lên xuống ở khỏang 70 000 – 80 000 ha ( 1995- 2002 ) mỗi năm cả ba vụ: năng xuất còn kém cõi khỏang 3. 5 – 3.6 tấn /ha/vụ , kém hẳn năng xuất lúa nước 4,5 tấn / ha ở tỉnh Ninh Thuận - Phan- Rang, tỉnh khô hạn nhất nước nhà ( nay cũng là thuộc miền Đông Nam Bộ như Bình Thuận - Phan Thiết), dù rằng khởi thủy kỷ thuật cận đại theo tiểu điền tăng gia năng xuất, sản lượng các giống lúa Thần Nông –IR như đã nói ở phần A là ở Trung tâm cù lao Phố và chính ở khu công nghệ Biên Hòa cũ, có trước nhất công ty nhà máy sản xuất nhiều lọai nông cơ mới cho lúa nước VIKINO, thành lập từ năm 1967… ) , nhà máy pha trộn các phân hóa học thích nghi, nhà máy pha thuốc bảo vệ mùa màng v.v… Không rỏ các giống lúa lai ưu thế lai – hybrid rice mới ( các giống lúa Thần Nông -IR là các giống nội phối – inbreds hay “lúa thuần” cao năng, cao phẩm tuyễn chọn cháu chắt, sau khi lai các giống cha mẹ thích nghi ) do công ty cổ phần giống cây trồng miền Nam nhập nội, khảo nghiệm ngắn ngày tỉ như PAC 807 , chống đổ ngã, bông to, trồng quanh năm, kháng bệnh đạo ôn ( cháy là ), lùn xoắn lá.., gạo dài , ( 7mm) không bạc bụng , mềm cơm, đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, năng xuất 7-8 tấn ( thâm canh tốt dạt 10- 11t/ha/vụ) có thích nghi cho những sinh thái ruộng lúa nước tỉnh Đồng Nai chăng ? Đồng Nai cũng là tỉnh có diện tích trồng bắp ( ngô ) lớn nhất nước, diện tích trung bình trên 65 000ha, gấp đôi diện tích bắp hai tỉnh Đông Bắc ( Hà Giang, khỏang 40 000 ha, Cao Bằng khỏang 32 000 ha ) và Thanh Hóa (45 – 50 000 ha ) tỉnh Bắc Trung Bộ trồng nhiều bắp nhất, và áp dụng kỷ thuật cũng trồng các giống bắp lai cao năng kiểu Hoa Kỳ ( kỷ thuất bắp giống lai của các hảng Pioneer, Cargill …. ) bộ Nông Nghiệp đã khảo cứu nhiều năm ở miền Đông Nam Bộ , sau năm 1975, đặc biệt ở Trung Tâm Hưng Lộc ( ? ). Tuy vậy bình quân đầu người lương thực mễ cốc ( cereals ) quy thóc ( lúa ), ( một mức tiêu chuẩn ý niệm đủ lúa gạo ăn suốt năm), các năm 1995 – 2002 của tỉnh Đồng Nai, chỉ mới đạt mức 220 – 250 kg (muốn đủ nhu cầu lương thực, bình quân đầu người quy thóc một năm phải trên 500 Kg). còn thua kém Tây Ninh ( 540 – 593 kg ), tuy đã vượt xa hai tỉnh miền Đông Nam Bộ khác là Bình Phước ( khỏang 75 kg) và Bình Dương ( 90 – 115 kg ). Không một tỉnh nào của Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ( ngọai trừ Tây Ninh ) các năm vừa kể, đạt mức tiêu chuẩn bình quân đầu người qui thóc cả thảy . Ở đồng băng sông Hồng thì đã có các tỉnh Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình luôn luôn vựợt mức tiêu chuẩn ; Hải Dương , Hưng Yên trên mức tiêu chuẩn những năm được mùa và Bắc Ninh ít hơn mức tiêu chuẩn đôi chút. Các tỉnh Đồng Bằng sông Cửu Long : thường sản xuất mỗi năm gần hai lần mức tiêu chuẩn là Trà Vinh, SócTrăng, Vĩnh Long ; trên hai lần là Long An, An Giang , Cần Thơ, Bạc Liêu , Đồng Tháp : và đặc biệt gần ba lần là Kiên Giang vào những năm cuối thập niên 1990, đầu thập niên 2000. Cà Mau trụt xuống dưới mức tiêu chuẩn các năm đầu thập niên 2000, khi dân chúng đưa nước mặn vào ruộng lúa nuôi tôm lợi hơn lúa. Bến Tre, xứ dừa, luôn luôn chỉ mới đạt trên phân nữa mức tiêu chuẩn đôi chút! Nếu không tiến triễn nhiều thêm được về mức tăng gia lúa gạo về năng xuất trong tương lai, vì ít đất phù sa mới thích hợp lúa nước so với đồng bằng sông Hồng hay đồng bằng Sông Cửu Long, tỉnh Đồng Nai có lẽ nên chuyễn đổi cơ cấu cây trồng qua bắp lai cao năng vì năng xuất trung bình ở tỉnh nhà còn qúa thấp, các lọai lương thực củ như khoai lang ( không phải làm lọai thực phẩm chính ăn độn gạo vào những năm mất mùa lúa, mà là là củ các lọai khoai lang “tía “ Nhật bổn mới đây ( các giống DST , CM , N1, N2, NH3, HN 418) trên những đất xám bạc màu như ở làng Xuân Tâm, huyện Xuân Lộc , năng xuất thu hoạch sau 3 tháng trồng đến 20 tẩn/ha năng xuất lúa nước quá kém làm các món ăn phụ trộn “rau” canh, hay các lọai cũ nhiệt đới khoai môn - taros, khoai mở - ignames ( yam ) … công dụng như “rau” khoai lang tía , nay đã thấy bán nhiều ở các siêu thị Tàu – Á Đông. Một lọai củ - root crop cỗ truyền khác là khoai mì – sắn ( cassava , manioc ) mà Trung Tâm Hưng Lộc – huyện Long khánh Đồng Nai, cũng đã tuyễn chọn với sự cộng tác của Trung tâm Quốc tế Canh Nông Nhiệt đới - CIAT , Nam Mỹ Châu tạo ra nhiều tinh dòng mới ( gọi là tinh dòng –clones vì trồng bằng hom vô tính – asexual cuttings, khúc thân, thay vì hột giống chỉ sử dụng khi lai tuyễn chọn di truyền ) cao năng gấp 4-5 lần năng xuất các tinh dòng cỗ truyền ( tỉ như HL -HưngLộc 20 , HL 23, HL 24 , KM 94 ( Kasetsart 50 ) KM 60 ( Rayon 60 )… , góp phần giúp cạnh tranh thắng lợi công nghệ làm bột ngọt nước nhà, làm bột năng – tapioca, làm ethanol ( hình như có phần tốt hơn cả từ bắp kiểu Hoa Kỳ hay từ mía, kiểu Brasil ? ), làm thực phẩm gia súc ( kể luôn cả lá chứa nhiều chất dinh duỡng tốt, nhiều protein …. ), bột pha trộn được với bột lúa mì lên men làm bánh mì tây phương đặc sản kiểu Brasil ăn sáng, pha trộn làm bánh phồng tôm Sa Giang – Sadéc … Diện tích khoai mì các năm 2001 -2002 ở tỉnh Đồng Nai là 16 000 ha gấp đôi diện tích các năm1999- 2000 , tuy ít hơn Tây Ninh, Bình Phuớc; năng xuất có phần cao hơn 11 – 15t / ha, nhưng còn kém năng xuất khoai mì trung bình ở Thái Lan 22- 25 t/ha, sau xa năng xuất các tinh dòng cao năng tiềm thế đã có trong nước là 50 -60t/ha.
I- b . Tiến tới chuyễn đổi cơ cấu vòng cung xanh – rau hoa, vòng cung trắng sửa tươi , các làng chuyên canh đặc sản
Đồng Nai phải lợi dụng tính cách ngọai ô của thành phố Sài Gòn làm ra vòng cung – vành đai rau đậu- vegetables, cây cảnh hoa kiểng – flowers, bonsai- ornemental trees quanh Sài Gòn, để phục vụ phong phú hơn dân trung lưu yêu cầu mới cũ các thành phố, thị trấn đang dâng cao hơn lên ở miền Đông Nam Bộ; bổ sung các thực phẩm rau hoa cây kiểng bán ôn đới Đà Lạt – Bảo Lộc , Lâm Đồng thiết lập cung cấp cho Pháp Kiều mất liên lạc với mẩu quốc thời điểm 1940: nhấn mạnh đến những lòai nhiệt đới đã xuất khẩu được như dưa leo bé nhỏ- baby cucumber , khoai lang tía , cà chua , các lọai đậu , ớt , hành tây , hành ta… cố gắng dùng các kỷ thuật canh tác tốt – GAP ( Good agricultural Practices ) nước sạch không ô nhiễm, kiểm dịch – vệ sinh đàng hoàng, để bán ra rau đậu tươi thay vì chỉ thường xuất khẩu dưới các thể chế biến đóng hộp, sấy khô hay đông lạnh. Một lọai rau mới phát triễn ở Long Khánh là rau lá nho , thay vi trồng ăn trái nho ( hay làm rượu nho, bồ đào mỹ tửu) . nay trồng khai thác lá xuất khẩu sang Đông Âu và Trung Đông , dưới thể bảo quản đựng thùng nhựa kỷ thuật Hoa Kỳ công ty thực phẩm Mỹ Yeget thu mua; hom giống nho IAC mua từ Bình Thuận. Xây dựng những làng chuyên canh như đã thực hiện trong tỉnh nhà, 25 làng trồng các lọai nấm – mushroom cultivations : nấm mèo – Auricularia sp., nấm rơm Volvoriella sp ., nấm bào ngư Pleurotus sp - nấm đầu đinh enoki, nấm đông cô … nấm dược phẩm Linh Chi , reishi Ganoderma sp. ; sản luợng trên 30 000 tấn nấm tươi ( 5000 tấn nấm khô ) vào năm 2007. Tương tự cách thiết lập những làng trồng nấm chuyên canh ở tỉnh Đồng Nai là những làng chuyên canh cây ăn trái “ tươi “( ăn quả ) như đã có làng bưởi Biên Hòa– TânTriều : chuối , thơm dứa , đu đủ , sòai riêng , ổi xa lị, chuối bé- baby bananas ngon ngọt hơn lọai chuối Già to ( chuối xiêm , chuối cau , chuối mật mốc, chuối ngự , chuối Đồng Nai… ), nhãn, chôm chôm, các lọai mơ lông- dưa hấu -dưa gang Trung Á, và tại sao không nhãn lồng, chùm bao ,“chanh dây “ – passion fruit xứ nóng , cây bơ lòai lai cho xứ nóng, các lọai mận ta ( roi , đào –lý, táo ta , xơ ri Gò Công- Barbados cherries Acerola… ), táo ta – jujuba nhiều giống cải thiện trái to ngon ngọt hơn các giống táo đào tiên, táo ta Thái Lan, ngay cả chùm ruột, bần( bồ ) quân, bòn bon ngọt- langsat lịm Mã Lai, dâu da, dâu ta đỏ ( nam trân )- rambai sp. cải thiện, mảng cầu dai như đã có ở Tây Ninh, ngòai mảng cầu dai Tân Thành- Gò Công trước chiến tranh gần khí hậu biễn, mảng cầu xiêm -corrosol giống mới Mexico , dừa lùn hay dừa xiêm… lấy nước uống ( không phải là nạo gáo, ép khô dầu lấy dầu xưa cũ )…
Mở rộng thêm cây ăn trái, cũng như các cây công nghệ lâu năm, tất nhiên phải duyệt xét lại chương trình trồng lại 5 triệu ha, quan niệm còn hơi xưa cũ, quá thiên về môi sinh ôn đới hay bán ôn đới các nước đất rộng người thưa, trong khi nước nhà phần lớn khí hậu nhiệt đới hậu đất hẹp người đông. Ở tỉnh Đồng Nai, có lẽ nên duyệt lại cách thức diện tích và ranh giới các rừng bảo vệ , rừng bảo tồn nguyên thủy, lưu vực thủy điện, thủy nông, công viên bảo tồn thực vật-động vật hiếm có, mục đích đúng kinh tế hơn, khoa học nhiệt đới hơn cho các rừng trồng lại lọai cây gỗ ,tre mây …Tỉnh Đồng Nai có chừng 180 000 ha đất lâm nghiệp, có ba công nghệ lâm nghiệp quan trọng cho nước nhà là giấy, đồ tre mây và đồ mộc gỗ xẽ gỗ ván ( ? ). Mức xuất khẩu đồ mộc- tre mây của Việt Nam năm 2008 đã là 2, 4 tỉ đô la, giá trị trên xuất khẩu gạo và nhiều nông phẩm khác, chỉ sau ngư sản . Đồng Nai nổi tiếng xa xưa là nơi rừng tre mây bạt ngàn, một trong những tỉnh nhiều rừng tre nứa, cao hơn mức trung bình cả nước có 1, 4 triệu ha tre nứa, 10,5 % tổng diện tích đất rừng lâm nghiệp , cung cấp mỗi năm 400- 500 triệu thân tre -nứa - luồng- mạy … nhưng nay đã có dấu hiệu là thiếu tre làm giấy ( nhà máy giấy Đồng Nai Cogido thời Cộng Hòa sử dụng nhiều lọai tre , chẳng hạn các lọai tre lồ ô Bình Phước ) và công nghệ đan tre. Từ lâu Việt Nam đã phải nhập khẩu mây cho công nghệ, dù trong nước đã kiểm kê đến 30 lọai mây trong số này có 10 lọai có gía trị kinh tế cao, nhiều lọai này hiện diện ở các rừng Đồng Nai ; mức xuất khẩu đồ mây Việt Nam chiếm trên 20 % thị trường quốc tế . Mức nhập khẩu lên đến 33 ngàn tấn mỗi năm cho nhu cầu mây tiêu thụ trong nước và xuất khẩu tổng cọng chừng 60 – 80 000 tấn một năm. Việt Nam đã có 2017 làng tiểu công nghệ tre mây trong đó 723 làng chuyên đan mây. Trị giá hàng xuất khẩu tre mây đã đạt 219 triệu đô la năm 2007, năm 2010 lên đến trên 300 triệu đô la Mỹ , bán cho 120 quốc gia trên thế giới và xử dụng trên 342 000 nhân công . Rừng Việt Nam sản xuất chừng 3 triệu m3 gỗ không đủ dùng cho khỏang 1500 doanh nghiệp cưa xẽ , chế biến gỗ, làm các bàn ghế, tủ, giường thời trang, cận đại … của 2 tỉnh Đồng Nai, Bình Dương cùng Thành phố HCM nơi tập trung công nghệ này để xuất khẩu. Như đã kể trên , ngòai việc kiểm sóat lạm thác, Việt Nam cũng như tỉnh Đồng Nai cần duyệt xét lại việc bảo vệ, khai thác rừng tre mây, cố gắng tổ chức những làng chuyên trồng tre mây cho những khu vực tập trung được quanh làng chừng 30 – 50 000 ha , như đã thành công trồng tre “ luồng” Dendrocalamus barbatus ở tỉnh Thanh Hóa hay trồng mây ( mây đan , mây manh, mây Bắc Bộ- glutinous rattan ? ) cao năng và ngắn ngày, chỉ 5 năm là khai thác được ở tỉnh Thái Bình.
Hai lảnh vực khác đáng nêu lên là chăn nuôi và ngư nghiệp lục địa. Nuôi gà thịt kỷ thuật Hoa Kỳ qui mô ở tỉnh nhà còn nhỏ bé, còn phụ thuộc quá nhiều về nhập khẩu bắp Hoa Kỳ, vì chương trình khoai mì chưa phát triễn hướng về chăn nuôi, bắp lai cao năng chưa phổ biến đủ kỷ thuật chuyễn đổi cơ cấu sản xuất thích nghi đại trà cao năng hơn, tuy Đồng Nai đã tiến bộ nhiều về lai tạo các giống bắp lai cao năng sau 1975, như đã nói trên. Hình như mới đây, một cơ cấu chăn nuôi bò sửa liên doanh năm 2003 chánh phủ chỉ còn giữ 47.6 % cổ phần mà thôi, là Vinamilk thay cho công ty quốc doanh cũ thành lập năm 1976, do một ban quản trị hòan toàn là phụ nữ, đã thành công cung cấp một triệu cốc sửa tươi một ngày cho trẻ em, thu mua các trại chăn nuôi bò sửa tỉnh nhà . Đầu thập niên 1960, trại bò sửa thử nghiệm tân tiến Úc Châu viện trợ thành lập đầu tiên ở Bến Cát – Bình Dương, đã bị tàn phá vì chiến tranh .
Sản lượng thủy sản nuôi trồng đã tăng hơn gấp đôi từ 6131 tấn năm 1995, lên đến trên 13 000 tấn năm 2002, còn có thể tăng thêm hơn nữa khi sử dụng đúng tiềm năng các hồ trử nước thủy điện : hồ Trị An diện tích mặt nước 32 300 ha và hồ La Ngà…, cũng như 60 sông suối, kênh, đất thấp đầm lầy hệ thống sông Đồng Nai đặc biệt nuôi cá bè như đã nói ở phần tổng quát , nuôi tôm nước ngọt , cá nước ngọt như cá tra, cá rô phi , điêu hồng tòan đực hay các lọai khác của sông Đồng Nai và chi nhánh v .v… góp phần tăng sản lượng xuất khẩu thủy sản tòan quốc năm 2010, đã đạt 5.034 tỉ đô la- USD ( vượt kế họach dự trù là 4.5 tỉ ) và 1 353 triệu tấn.
I – c . Tiến thêm về các cây công nghệ lâu năm: cà phê vối Robusta , cao su cao năng ba công dụng, cây hột điều tháp tinh dòng cao năng , tiêu xen kẻ cây hột điều đất xám … , chú tâm hơn nữa về cách chế biến làm sạch hay bớt ô nhiễm…
Có lẽ tốt hơn nữa cho nông nghiệp tỉnh Đồng Nai là mở rộng thêm và cải thiện năng xuất , phẩm giá các cây lâu năm công nghiệp như cà phê , cao su , hột điều , ( hồ ) tiêu. Khí hậu , đất đai Đồng Nai rất thích hợp cho lọai cà phê vối Robusta. Diện tích cà phê Robusta không đáng kể ở tỉnh Đồng Nai trước năm 1975, năm 2004 đã đứng hàng thứ tư nước nhà,diện tích trên 60 000 ha , chỉ sau Đắc Lắc ( Ban Mê Thuột ) 234 000 ha , Lâm Đồng 100 000ha và Pleiku – Gia Lai 75 000 ha , trong tổng số 506 500 ha cà phê tòan quốc năm đó. Góp phần đưa Việt Nam lên hàng thứ nhì xuất khẩu mọi lọai cà phê, sau Brasil, trên hẳn Colombia, Inđônêxia và Bờ Biễn Ngà- Côte d’ Ivoire và hàng thứ nhất xuất khẩu cà phê vối Robusta,có tỉ lệ cafêin cao nhất. Năm 2008 , Việt Nam đã xuất khẩu 994 000 tấn cà phê, đa số là Robusta, trị gíá 2. 003 tỉ đô la Mỹ và năm 2009 xuất khẩu 1183000 tấn, trị giá lại thấp hơn 1. 731 tỉ. Năm 2010. Việt Nam xuất khẩu 1200000 tấn, 20 -30 000 tấn cao hơn 2009, nhưng trị giá cũng chỉ là tương đương 1. 7 tỉ đô la . Năm nay 2011, cà phê lên gíá lại trên thương trưòng quốc tế và ước lượng quốc tế sẽ còn tăng thêm nữa những năm tới, nên chắc chắn tỉnh Đồng Nai sẽ còn tăng thêm diện tích và sản lượng cà phê . Vì không những Đồng Nai có thể có đủ nước tuới dặm mùa khô cho cà phê khỏi rụng hết hoa đầu mùa lỡ khi mưa đến chậm, cà phê cần nhiều nhân công chăm sóc , thu họach , 230 ngày công/ ha . Hệ thống thu mua cà phê cũng rất có lợi cho nông dân tiểu điền sản xuất; theo nhiều nghiên cứu cho biết 90% tiền bán FOB ( Free On Board )được hòan lại cho nông dân. Đồng Nai còn có lợi nhờ công ty Thái Hòa thu mua, sản xuất, chế biến cà phê ngay tại khu công nghệ tỉnh nhà, tương tự công ty cà phê Tây Nguyên ở Ban Mê Thuột vậy đó. Cũng như lúa gạo và nhiều nông phẩm khác, vấn đề cho ngành cà phê Việt Nam là phẩm giá và nhãn hiệu- brand name đặc hửu cà phê nước nhà để tăng thêm trị giá xuất khẩu, nâng cao thêm lợi tức cho các tiểu điền trồng cà phê. Sản lượng cà phê Việt Nam xuất khẩu, như đã biết, đứng hạng nhì thế giới, nhưng chỉ được xếp vào hạng tư trên cương vị phẩm giá !
Thứ đến là cao su thiên nhiên Ngân Hàng Đông Dương cũ đầu tư tài trợ lập các đồn điền- đại điền Pháp phần lớn trên đất đỏ latosols, nay cọng thêm các tiểu điền Việt trên các đất đai hệ thống sông Đồng Nai. Năm 2008, Việt Nam đã xuất khẩu 650 000 tấn cao su thiên nhiên trị giá 1.593 tỉ đô la và năm 2009 tăng lên 731 000 tấn, trị giá 1. 227 tỉ đô la. Giá cao su thiên nhiên tiếp tục gia tăng , nên xuất khẩu cao su là 783 000 tấn năm 2010, trị giá 2. 37 tỉ đô la. Diện tích phát triễn cao su cao năng trên đất đỏ, nâu đỏ latosols tỉnh nhà gần cạn kiệt, khai thác hết. Vì vậy phải tìm cách trồng cho được cao su cao năng trên đất phù sa như Đồn diền Pháp cũ Michelin đã làm ở Dầu Tiếng hay tiến thêm , hòan tất mau hơn các thử nghiệm cao su trên đất đất xám bạc màu có kết von laterit khá xa mặt đất, địa phương gọi là “ đất khốp” , lọai ít khi ngập nước nhiều tháng, và tỉnh Đồng Nai có vũ lượng cao hơn 1000 m , một giới hạn mức tăng trưởng cây cao su đáng kể trên đất khốp. Ngòai việc thực hiện trồng 200 000 ha cao su trên đất đỏ ở Lào, ở Cam Bốt; diện tích các doanh nghiệp trồng cao su Việt Nam ( tập đòan công nghiệp Cao su Việt Nam VRB , Đắc Lắc, Bình Định, CP Hòang Anh Gia Lai v.v…), đã đạt 54 640 ha ở Lào từ năm 2005 đến năm 2010 . Khả năng cải thiện năng xuất với các tinh dòng và kỷ thuật chăm sóc vườn cao su cận đại tỉnh nhà đã có sẳn, nên mức sản xuất còn có thể gia tăng , cũng như diện tích khai thác tổng diện tích trồng mới đến 60%. Áp dụng trồng các giống nguồn gốc Mã Lai, có khả năng làm bột giấy và làm gỗ cưa-xẽ, kỷ nghệ đồ mộc - furniture nước nhà còn nhập khẩu nguyên liệu đến hơn 1 tỉ đô la , khi vườn già cỗi phải trồng lại, có thể khích lệ giúp tiểu điền cao su trồng lại vườn già cỗi hay nới rộng diện tích với các cao su giống mới cao năng, đa dụng hơn . Một khó khăn khác có thể giới hạn phát triễn cao su thiên nhiên tương lai là chế biến mũ cạo thành sản phẩm xuất khẩu tương đối khá ô nhiễm, nên Việt Nam cần phối hợp với Thái Lan , Mã Lai Á ….tìm cho được các giải pháp sạch hay bớt ô nhiễm .
Hột điều cũng là một xuất khẩu mới gần đây và quan trọng ở tỉnh nhà. Trồng được trên đất xám bạc màu, một lọai đất diện tích lớn ở Đồng Nai. Năm 2000, Việt Nam chỉ mới sản xuất 19 000 tấn . Năm 2007 đã xản xuất 157 000 tấn, năm 2010 lên đến 196000 tấn , gíá trị xuất khẩu 1. 14 tỉ đô la. Vấn đề cho ngành trồng hột điều là phải tìm cách tăng gia 3- 4 lần năng xuất, tháp các tinh dòng cao năng trên các vườn tiểu điền trồng giống sa cạ không tuyễn chọn , năng xuất rất thấp kém. Cố gắng chấm dứt nhập khẩu hột nguyên liệu chưa chế biến từ Phi Châu (Côte D’ Ivoire hiện chiếm 50% tổng số, trước đây là Tanzania, Mozambique … , và từ Cam Bốt ( trước đây là từ Ấn Độ ) càng sớm càng hay.
Cuối vùng là tiêu ( hồ tiêu ) . Năm 2007, tỉnh Đồng Nai cũng đứng thứ tư sản xuất tiêu , khỏang 5000 ha , sau Bình Phước 13 000 ha, Đắc Lắc 9000 ha, Bà Rịa – Vũng Tàu 76000 ha. Mức xuất khẩu tiêu tòan quốc năm đó là 82 000 tấn. Năm 2010 đạt 110 000 tấn, trị giá trên 390 triệu đô la. Tiêu Đồng Nai tập trung ở vùng đồi núi huyện Xuân Lộc, trên cả đất đỏ lẫn đất xám bạc màu. Áp dụng đúng kỷ thuật, tiểu điền thu họach trên đất đỏ đến 7- 8 tấn tiêu khô / ha. Trên đất xám bạc màu , năng xuất kém hơn ; nhưng đa số nông dân Đồng Nai trồng tiêu xen kẻ với các vưòn hột điều, thu lợi gấp ba bốn lần thu họach hột điều riêng rẽ, vì đầu năm 2011, giá tiêu gấp ba lần giá hột điều, và năng xuất tương đương trên đất xám bạc màu. Vấn đề là thiếu nhân công thu họach tiêu, vì lao động đã đi làm tại các công ty, xí nghiệp; không thu họach kịp để tiêu quá già, trụ tiêu sẽ suy và giảm năng xuất vụ tới.
II – Phát triễn công nghệ
Tăng trưởng công nghệ ở tam giác đất hứa đứng hạng nhất nước nhà .
Đồng Nai thuộc vùng trọng điểm phát triễn phía Nam gồm TP HCM – Sài Gòn , tỉnh Bình Dương, tỉnh Đồng Nai và tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Hình thành một tam gíác đất hứa - tăng trưởng ( không gồm Bình Dương ), tiến triễn nhanh mạnh, tạo sức hút, lực kéo đối với các lảnh thổ xung quanh, chuyễn đổi kinh tế theo “ hướng rồng bay”, hội nhập vào nền kinh tế Đông Nam Á và quốc tế .
GDP của Việt Nam mỗi đầu người, năm 1990, khỏang trên 200 đô la Mỹ đôi chút, chỉ mới tương đương với Hàn Quốc cuối thập niên 1960 ( lúc này GDP mỗi đầu người Hàn Quốc còn bị dư hưởng chiến tranh Triều Tiên thua kém Đệ nhất Cộng Hòa Việt Nam được an bình 5 năm, không chiến tranh ). Nhưng cơ cấu GDP của tam giác tăng trưởng đất hứa, lúc này đã tương đương với cơ cấu GDP Hàn Quốc nữa cuối thập niên 1980 , thời điểm Hàn Quốc đang cất cánh kinh tế– take off , “hóa rồng” ở Đông Nam Á( gồm 4 nước là Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và Singapore ; rồng là tên gọi các nước hay lảnh thổ mới đang công nghiệp hóa NIC – Newly Industrializing Countries ) . Nếu kể riêng rẽ thì Saigon -TP HCM năm 1995 , đã có cơ cấu kinh tế tương tự của những nước có thu nhập cao trên thế giới ( nông lâm ngư nghiệp : 3% , công nghiệp và xây dựng: 42%, dịch vụ 55% ). Còn Đồng Nai có cơ cấu kinh tế của các nước có thu nhập trung bình ( 12 % , 37 % và 51 % ) . Cơ cấu kinh tế Đồng Nai, năm 2009, dù ở thời điểm Việt Nam phát triễn suy thóai như mọi nước trong vùng, vẫn ở mức tăng trưởng 9 % và đạt tỉ lệ 10% ở nông lâm ngư nghiệp, 40% ở công nghiệp – xây dựng, 30% ở dịch vụ . Chín tháng đầu năm 2009 đã tạo ra hơn 85 000 công ăn việc làm, đưa mức lợi tức trung bình mỗi đầu người lên đến 1403 đô la Mỹ, hạ tỉ số gia đình nghèo khổ xuống mức 6.9 %; chiếm 4 % GDP tòan quốc và đứng hạng 5 đóng góp vào ngân sách quốc gia.
Thập niên 1990, Việt Nam thiết lập những vùng hành chánh đặc biệt để thu hút đầu tư ngọai quốc trực tíếp, khích lệ xuất khẩu, khuyến khích đầu tư đồng đều hơn khắp xứ sở. Đó là những công viên hay vùng công nghệ-industrial parks, industrial zones, có ranh giới địa lý định sẳn, đúng theo các luật lệ điều hành chánh quyền ban hành và thường chứa nhiều đặc ân dành cho đầu tư . Gồm 4 lọai : * vùng công nghệ- Industrial zones là những khu vực đặc thù chuyên chế tạo – manufacturing sản phẩm công nghệ và cung cấp dịch vụ cho công nghệ chế tạo; *vùng chế xuất - Export Processing zones chuyên môn sản xuất những hàng hóa xuất khẩu ; * mới gần đây là vùng công nghệ cao kỷ tri thức- High Tech zones chuyên môn làm khảo cứu, phát triễn và ứng dụng cao kỷ: * vùng Kinh tế- Economic zones . Khích lệ là miễn thuế một thời gian – tax holidays, giảm bớt thuế lợi tức tổ hợp, gác lại thuế quan và thuế đánh trên đầu vào sản xuất và nhà máy và những tỉ xuất ưu đải tiền thuê đất đai.
Chắc chắn là các vùng này đã đóng một vai trò quan trọng phát triễn sản xuất địa phương và thu hút đầu tư ngọai quốc. Đến cuối năm 2008, Việt Nam đã thiết lập 219 vùng đặc biệt này, thu hút trên 16 tỉ đô la dự án tư bản đầu tư trực tiếp. Công nghệ điển hình là tơ sợi, áo quần, điện tử, nhựa dẽo – plastics và chế biến nông phẩm. Riêng trong năm 2008, 49 vùng công nghệ mới đã được thành lập ở vùng phát triễn trọng điểm kinh tế phía Nam ( gồm thêm tỉnh Bình Dương , ngòai tam giác tăng trưởng) , tổng diện tích là 15 675 ha và 8 vùng cũ đang được nới rộng, tăng thêm 2 810 ha. Ở tam giác tăng trưởng “ đất hứa” , tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu dẫn đầu tòan quốc, thu hút 4.5 tỉ đô la đầu tư ngọai quốc năm 2008 và tỉnh Đồng Nai thu hút 1.01 tỉ. Năm 2000, tỉnh Đồng Nai đã xây dựng 14 khu - vùng công nghệ .Năm 2015, tỉnh nhà có tăng thêm lên đến 42 khu công nghệ , diện tích tổng cọng là 13 – 14 000 ha và cũng cố hay nới rộng các cụm công nghệ hiện tại , diện tích nới rộng là 2500 – 3000 ha và dần dần biến các cụm công nghệ - industrial clusters thành các công viên công nghệ- industrial parks. Dự trù đến năm 2020, sẽ có cả thảy là 45- 47 khu công nghệ , tổng diện tích là 15 000 – 16 000 ha. Trị gía sản phẩm công nghệ Đồng Nai tăng trung bình 17 % một năm trong thời gian 2011- 2015 và 16.5 % các năm 2016- 2020 . Sản phẩm công nghệ tiên tiến , cao kỷ sẽ trên 75% giá trị năm 2015 và 85 % năm 2020. Cho nên cần lưu tâm đến các sản phẩm côngnghệ rác rưới ,các nước tiên tiến muốn đổ thải ở Việt Nam luôn cả ở Đồng Nai – Biên Hòa , đặc biệt từ các nguồn đầu tư Trung Quốc ! ( theo Nguyễn Lộc tháng 8 năm 2015 cho biết ) .
Thúc đẩy tăng trưởng nhờ thiết lập, hình thành các công viên vùng công nghệ, khu chế xuất…
Sau đây là tóm tắt tình hình 8 khu- công viên công nghệ điển hình tỉnh Đồng Nai, tính đến tháng 5 năm 2011:
1- Vùng công nghệ I Biên Hòa, ở phường An Bình thị xã Biên Hòa, cách thành phố Sài Gòn 25 km về phía Đông Bắc, cách thị xã Vũng Tàu 90km. Diện tích 335 ha, trong đó diện tích cho thuê là 231 ha, đã cho thuê hết 100%. Hạ tầng cơ sở đã làm xong tất cả đường xá giao thông nội khu, mọi mương hào thóat thủy, có một trạm biến điện 125 MVA từ mạng lưới điện quốc gia, nhà máy nước Thủ Đức cung cấp 25 000 m3 một ngày, thông tin và viễn thông thuận tiện khắp nước và ngọai quốc, có nhà máy làm sạch phế thải chất lỏng và mọi cơ sở công cọng dịch vụ hòan tất. Hiện có 90 dự án, tư bản đăng ký lên trên 326 triệu đô la Mỹ. Đầu tư ở các lảnh vực: chế biến thực phẩm, hóa chất,vật liệu xây dựng, cơ khí, điện tử, giấy và dịch vụ.
2- Vùng công nghệ II Biên Hòa, ở phường Long Bình , thị xã Biên Hòa, đối diện vùng công nghệ I Biên Hòa. Diện tích 365 ha, trong đó có 261 đất cho thuê, đã cho thuê hết 100 %. Hạ tầng cơ sở cũng đã làm xong mọi đường xá giao thông nội khu và mọi mương hào thóat thủy, có một trạm biến điện 63 MVA sẽ nâng cấp lên 80 MVA từ mạng lưới điện quốc gia, nhà máy nước Biên Hòa cung cấp 15 000 m3 một ngày, thông tin và viễn thông thuận tiện khắp nước và ngọai quốc, có nhà máy trị liệu phế thải chất lỏng cho tòan vùng công xuất ở giai đọan1 là 4 000 m3 /ngày . Hiện có 126 dự án, tổng cọng tư bản đăng ký là 1396 triệu đô la Mỹ. Lảnh vực đầu tư gồm: sản phẩm, nông phẩm và chế biến thực phẩm, áo quần và tơ sợi, châu báu nữ trang, hàng mỹ nghệ, giày dép, đồ ăn mặc thể thao, gói ghém cao phẩm, các sản phẩm công nghệ từ cao su thiên nhiên, sành sứ, gương, xưởng ráp hàng điện tử, đồ phụ tùng cho computer, các bộ phận điện tử, chế tạo mọi lọai dây điện, mọi vật dụng điện, vật liệu xây dựng cao cấp, chế biến gỗ điêu khắc, chạm trỗ đồ gỗ, các phụ tùng xe hơi và xe gắn máy, xưởng ráp xe hơi và xe gắn máy, các sản phẩm ngành dược các dụng cụ y khoa và thuốc ta từ cây cỏ, hột PVC và hàng hóa chất nhựa dẻo, các bộ phận cơ khí và kim lọai máy móc và trang bị công nghệ.
3 - Vùng công nghệ Gò Dầu, ở làng Phước Thái, huyện Long Thành. Diện tích 136,7 ha, diện tích cho thuê 116.3 ha ( không kể 120 ha công Ty Vedan đã thuê ), chỉ mới cho thuê đất 85.08 %. Đường xá và mương hào hạ tầng cơ sở đã hòan tất, cũng như trạm biến điện 40MVA từ mạng điện quốc gia, đã xây cất nhà máy nước dung tích 10 000 m3 / ngày, thông tin viễn thông thuận tiện khắp nước và ngọai quốc, đã xây cất nhà máy trị liệu chất lỏng phế thải, dung tích 1000 m3 / ngày. Hiện có 14 dự án, tư bản đăng ký là 370 triệu đô la. Lảnh vực đầu tư gồm vật liệu xây dựng,bộ phận cơ khí, chế tạo và sửa chửa các máy móc – trang bị xe cộ, tơ sợi,áo quần, nhuộm, các đồ điện và điện tử, các hóa chất công nghệ và nông nghiệp, thực phẩm, các chế biến thực phẩm và nông phẩm, và công nghệ khác không làm ô nhiễm nặng nề.
4- Vùng công nghệ Amata, ở phường Long Bình, thị xã Biên Hòa. Diện tích 410 ha,129 ha cho giai đọan 1. Diện tích đất cho thuê là 100 ha và đã cho thuê 90 ha. Tiền thuê đất thay đổi tùy loại công nghệ ; giảm bớt cho công nghệ sử dụng diện tích lớn và hay cao kỷ .Về hạ tầng cơ sở đã hòan tất mọi đường xá nội vùng và mương hào thóat thủy; đã có trạm biến thế 40 MVA, đang xây dựng nhà máy điện cho tòan vùng Amata công xuất 120 MVA ; nhà máy nước dung tích 30 000 m3 / ngày, thông tin và viễn thông thuận tiện đến khắp nước và ngọai quốc. Có một nhà máy trị liệu chất phế thải lỏng dung tích 1000 m3/ ngày. Hiện có 46 dự án, tư bản đăng ký lên đến 320 triệu đô la . Lảnh vực đầu tư gồm computer và các bộ phận, thực phẩm và chế biến thực phẩm, chế tạo hay ráp các sản phẩm điện , cơ khí và điện tử, sản phẩm da, áo quần, len, giày dép, nữ trang châu báu, hàng mỹ phẩm, phấn son, dụng cụ thể thao , sản phẩm plastics, gói ghém, các sản phẩm công nghệ từ cao su thiên nhiên, sành sứ, guơng kiếng, thép xây dựng, công ten nơ thép, đồ phụ tùng xe hơi, chế tạo xe hơi, hóa chất cho bê tông, thực phẩm và chế biến thực phẩm, tơ sợi, nhà máy xay bột mì, mì ăn liền, các hàng tiêu thụ khác, tu bổ máy kéo ( máy cày ), sơn cao cấp mọi lọai, các chất dính công nghệ, chai đựng khí dầu, khăn vệ sinh, khăn bàn, lưới cá, hóa chất : sợi PE, hột plastics, bột màu công nghệ, dược phẩm, dược liệu cây cỏ, thuốc bảo vệ mùa màng, các thành phần bê tông ép trước, bê tông tươi.
5- Vùng công nghệ Loteco, cũng ở phường Long Bình, thị xã Biên Hòa. Diện tích giai đọan 1 là 100 ha, kể cả 40 ha dành cho khu chế xuất tương lai. Đất cho thuê là 72 ha, đã cho thuê 72 ha ( 49.01 % ). Về hạ tầng cơ sở đã hòan tất mọi đường xá nội vùng, mương hào thóat thủy; đã có nhà máy điện công xuất 3.2 MW, 6MW từ mạng lưới quốc gia và sẽ thiết bị thêm cho đến 40 MW; được cung cấp nước 6000 m3 / ngày, thông tin viễn thông thuận lợi khắp nước và ngọai quốc, có nhà máy trị liệu chất thải lỏng dung tích 1500 m3 / ngày. Hiện có 22 dự án, tư bản đầu tư đăng ký lên đến 151 triệu đô la. Lảnh vực đầu tư gồm: thiết bị điện tử computers và ngọai vi, chế tạo và ráp các sản phẩm cơ khí, điện và điện tử, dây, cáp, chế tạo các phụ tùng xe hơi và các phương tiện chuyên chở khác, chế tạo xe mô tô và phụ tùng công nghệ tơ sợi và áo quần, đồ da, giày dép, sản xuất và chế biến thực phẩm, dụng cụ quang học, đá qúi, mỹ nghệ, phấn sáp, dụng cụ thể thao và đồ chơi trẻ em, dụng cụ y khoa, sản phẩm plastics và kim lọai , dụng cụ gia dụng, đồ sành sứ- gương kiếng và pha lê, dụng cụ cơ khí chính xác, thép xây dựng, ống thép, vật liệu xây dựng guơng kiếng xây dựng và khắc chạm nổi – relief glass, sản phẩm cho tàu đi biển , đồ gói ghém mọi kiểu, dụng cụ thông tin, kỷ thuật sinh học, thuốc men cho người và cho súc vật, công nghệ giấy ( ngọai trừ bột giấy ) chế biến gỗ nội địa hay gỗ nhập khẩu, kỷ thuật in, dụng cụ máy móc và sản phẩm cho các nhà máy trị liệu phế thải công nghệ, hóa chất cho các doanh nghiệp sản xuất dùng ở các vùng chế xuất hay vùng công nghệ khác.
6- Vùng công nghệ Hố Nai, ở làng Hố Nai và Bắc Sơn, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai. Diện tích 523 ha , 230 ha cho giai đọan 1. Đất cho thuê 145.94 ha, đã cho thuê 83.65 ha ( 57.32 % ). Về hạ tầng cơ sở đã có điện đến 150 KVA, thông tin và viễn thông thuận tiện khắp nước và ngọai quốc. Đầu tư đang tiến triễn song song với hòan tất đồng bộ hệ thống điện, nước, viễn thông, thóat thủy, trị liệu chất phế thải. Hiện đã có 66 dự án, tổng số tư bản đăng ký trên 219 triệu đô la. Lảnh vực đầu tư gồm: công nghệ may mặc, ráp các thành phần điện và điện tử, ráp xe hơi và xe mô tô, xe gắn máy, công nghệ mùi vị, hóa chất phấn sáp, vật liệu xây dựng, dụng cụ trang trí nội gia, đồ gỗ, dụng cụ điện gia thất, dịch vụ ngân hàng, bưu điện, nhà kho và xây cất nhà máy cho thuê.
7- Vùng công nghệ Sông Mây, ở làng Bắc Sơn, huyện Thống Nhất. Diện tích 427 ha, dành 227 ha cho đợt đầu. Đất cho thuê 158 ha , đã cho thuê 52.88 ha ( 33.47% ). Về hạ tầng cơ sở đã có thông tin và viễn thông thuận tiện đi khắp nước và ra ngọai quốc. Đầu tư đang tiến triễn song song với hòan tất đồng bộ hệ thống điện, nước, viễn thông, thông tin, thóat thủy, trị liệu phế thải. Hiện đã có 19 dự án, tư bản đầu tư đăng ký 190 triệu đô la. Lảnh vực đầu tư gồm: chế tạo cơ khí, ráp sản phẩm điện tử, chế biến thực phẩm, dược phẩm, đồ da, áo quần.
8- Vùng công nghệ Nhơn Trạch 1 ( còn có tên là Tuy Hạ A ), ở làng Hiệp Phước, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Diện tích 430 ha. Đất cho thuê 323 ha. Đã cho thuê 213.72 ha ( 66. 16 % ). Về hạ tầng cơ sở, đã hòan tất đường xá nội địa và mương hào; thông tin và viễn thông thuận tiện đi khắp nước và ra ngọai quốc, đã có một trạm biến điện phụ 110KV/220KV công xuất 56 MVA, có một nhà máy bơm nước ngầm cung cấp 4500 m3 / ngày, sẽ nâng cấp cung cấp 15 000 m3 / ngày, đã có nhà máy trị liệu chất phế thải lỏng, dung tích 4000 m3 /ngày. Hiện có 47 dự án, tư bản đầu tư đăng ký 449 triệu đô la , trong số này 17 dự án đã họat động, 5 đang xây cất và 10 đang sửa soạn. Lảnh vực đầu tư gồm: vật liệu xây cất, cơ khí, dụng cụ cơ khí chính xác sản xuất và sửa chửa máy móc xe cộ, dụng cụ , tơ sợi , áo quần , nhuộm, các đồ điện và điện tử, hóa chất công nghệ, nông nghiệp và thực phẩm chế biến thực phẩm và sản phẩm nông nghiệp, các công nghệ khác không gây ô nhiễm nặng nề.
Tính đến tháng 30 tháng 8 năm 2010 , theo Bồ Ngọc Thụ , giám đốc Qui họach và Đầu tư ở tỉnh Đồng Nai , trả lời các phỏng vấn của các phóng viên Tin Tức Kinh tế Việt Nam – Việt Nam Economic News, tỉnh Đồng Nai đã có 981 dự án ngọai quốc đầu tư trực tiếp ( FDI ), tổng số tư bản đăng ký là 18.37 tỉ đô la Mỹ . Khỏang 89.85 tỉ trong thời gian 2006 – 2010. Cho đến nay , có 32 quốc gia hay lảnh thổ đầu tư vào Đồng Nai, theo thứ tự dẫn đầu là Đài Loan , Hàn Quốc, Nhật Bổn, các quốc gia Đông Nam Á – ASEAN, hiệp Hội Âu Châu và Hoa Kỳ . Âu Châu và Hoa Kỳ đã Đầu tư Trực tiếp – FDI hơn 11. 4 tỉ thời gian 2006- 2010, cao hơn qui họach dự liệu chỉ 5 tỉ mà thôi. Trước năm 2006, đa số các dự án FDI đầu tư vào khu vực công nghệ. Thế nhưng sau 2006, các dự án dịch vụ và cao kỷ đã gia tăng, đúng theo sách lược ưu tiên đầu tư vào tỉnh nhà.
Các nước Đông Nam Á đặc biệt đầu tư vào 113 dự án ở tỉnh Đồng Nai, nghĩa là 11.5% tổng số dự án ở tỉnh nhà, tư bản đăng ký 3. 4 tỉ đô la , chiếm 18.13 % tổng số. Cả thảy có 99 doanh nghiệp ASEAN làm nghiệp vụ trong tỉnh, tổng số đầu tư trị giá 1.7 tỉ ( chiếm 51.7 % tổng số tư bản đăng ký ) và sử dụng 26 500 lao động. Doanh nghiệp tên tuổi là CP Việtnam Co.Ltd, Amata Vietnam Joint stock Company, TPC Vina Plastic and Chemical Co. của Thái Lan, Hualon Vietnam, Betjara –D2D của Mã Lai Á, Haiyatt Vietnam Co . Ltd của Singapore, San Miguel của Phi luật Tân, UICViệtnam của Inđônêxia, và Roam Riva Chiung của Brunei. Các hảng ASEAN thích nghi mau lẹ nhất hiểu biết các thủ tục doanh nghiệp tại Viêt Nam ,cho nên thành công ở tỉnh Đồng Nai. Tuy nhiên các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam đa phần có quy mô nhỏ, định hướng xuất khẩu và tỉ xuất lợi nhuận thấp, chủ yếu làm thầu phụ cho các công ty đa quốc gia lớn hơn và do đó thường nằm trong khâu thấp nhất của chuổi giá trị sản phẩm Diều tra cho biết các doanh nghiệp FDI chỉ tiêu thụ một lượng hàng hóa nhỏ và dịch vụ trung gian nội địa, có đến 54 % nguyên vật liệu được FDI nhập khẩu do vật hiệu ứng năng lực công nghệ và kỷ năng quản lý bị hạn chế , không mấy kích thích sản xuất trong nước . Do đó chiến lược phát triễn kinh tế nước nhà, cũng như riêng tỉnh Đồng Nai, dựa nhiều vào FDI sẽ không bền vững. Cần sửa đổi theo hướng hội nhập tốt, nghĩa là thu hút FDI chất lượng cao để phát huy nội lực, nâng cao năng lực cạnh tranh các doanh nghiệp trong nước ( FCI ), kiến tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, sử dụng thông minh hơn các nguồn lực sẳn có ….
Những tiến triễn ưu, khuyết điểm vài công nghệ then chốt, còn ít lạm bàn
Chúng tôi đã lạm bàn khá nhiều về phát triễn công nghệ nguyên liệu nông lâm ngư và công nghệ tơ sợi may mặc nước nhà ở các lạm bàn về một số tỉnh, trong 63 tỉnh nước nhà. Nay chỉ lạm bàn thêm về vài lĩnh vực công nghệ liên quan đến tỉnh Đồng Nai, ít khi được nói đến .
* Công nghệ cơ khí mà nhản hiệu điển hình là VIKINO, thành lập năm 1967, thuộc vùng công nghệ I Biên Hòa, trước năm 1975, chủ yếu ráp các bộ phận máy cày nhỏ kiểu Kubota, Nhật Bổn, nhưng đã chuyễn đổi mạnh cơ cấu từ 1975 đến nay để trở thành một công ty cơ khí máy móc chế tạo nông cơ ( nông cụ cơ giới) hạng nhất nước nhà . Đặc biệt là sản xuất các lọai động cơ diesel từ 6 đến 30 mã lực theo kỷ thuật tân tiến nhất của Nhật và hiện đang cố gắng họa kiểu, phát huy R&D, sản xuất, giao hàng, sửa chửa hậu cung cấp, một động cơ hiệu năng hơn, sạch phát thải hơn, không những cho Việt Nam và khắp các nước ASEAN . Việt Nam hiện có 3100 doanh nghiệp công nghệ cơ khí - mechanical engineering industry, quốc doanh, tư doanh và công ty FDI. Chỉ gần phân nữa các công ty này là các công ty lớn chế tạo, ráp máy móc và thiết bị. Tư bản quốc doanh chiếm 380 triệu đô la Mỹ; tư bản các công ty FDI là 2.1 tỉ đô la. Công ty FDI đầu tư chủ yếu về ráp xe hơi, xê mô tô, xe gắn máy và các đồ gia dụng. Ưu tiên phát triễn dành cho 8 khu vực sau đây: các động cơ sản xuất tòan diện thiết bị- giàn sản xuất; máy móc cho sản phẩm nông nghiệp, dụng cụ làm máy móc, máy móc xây dựng, công nghệ đóng tàu, thiết bị điện và điện tử công nghệ xe hơi và công nghệ chuyên chở. Các công ty Việt Nam đã bước nhanh hướng về khả năng chế tạo các sản phẩm cơ khí. Trong thời gian 2001- 2007, mức tăng trưởng trung bình là 22 % và đã thõa mãn 40 % yêu cầu nội địa. Sản xuất mỗi năm 150 – 185 000 động cơ diesel, 100- 135 000 motor điện, 33- 50 000 máy biến điện, 8000 dụng cụ máy móc … Đồng thời các công ty công nghệ cơ khí Việt Nam luôn luôn góp sức ở những dự án công nghệ quan trọng như làm nhà máy xi măng , các nhà máy nhiệt điện hay thủy điện, nhà máy lọc dầu Dung Quất, cơ xưởng đóng tàu thủy và nhiều công nghệ khác. Nhưng ngành công nghệ này chỉ cạnh tranh được với những công tác phần lớn đơn giản như hàn xì , làm các cơ cấu khung hay không phải là tiêu chuẩn thép. Ngành công nghệ xe hơi và đóng tàu thủy là những thí dụ tốt đẹp cho khu vực này. Các chuyên gia nhìn thấy yếu kém ở mọi mức độ khác về đóng góp vào phát triễn của công nghệ địa phương ở những khu vực như đúc, rèn, tạo ra bán sản phẩm lớn, trị liệu bằng nhiệt , trị liệu mặt bằng và chế tạo các sản phẩm phẩm giá tiêu chuẩn cao . Những thừa tố các công ty công nghệ cơ khí cần khắc phục hầu cạnh tranh quốc tế được gồm những nhược điểm sau đây: nhiều máy móc trang bị với những kỷ thuật rất xưa cũ, thiếu thông tin và khả năng cọng táctrong nước, thiếu tin tưởng vào phẩm giá các sản xuất trong nước, các công ty chuyễn về hướng kinh tế thị trường quá chậm chạp không đủ khả năng cạnh tranh trên một thị trường tòan cầu canh tranh nhau rất lớn, thiếu tư bản đầu tư vì các công ty thường không muốn lảnh trách nhiệm làm đầu tư tư bản lớn hơn, thiếu thông tin thị trường quốc tế. Nhập khẩu máy móc vào Việt Nam tăng từ 748 triệu đô la năm 1986 lên đến 21.5 tỉ năm 2008. Máy móc Việt Nam xuất khẩu tăng từ 1.86 tỉ năm 2008, 2.003 tỉ năm 2009 và 2. 4 tỉ ( ? ) năm 2010. Chứng tỏ dù sao đi nữa công nghệ cũng có nhiều tiến bộ .
* công nghệ điện tử , mà điển hình là công ty Fujitsu Computer Products of Việtnam, Inc., ở vùng công nghệ II Biên Hòa, có nhà máy PCBA làm chip ( vi xử lý ) cao tốc, rất chính xác và họat động không ngừng. Công nghệ điện tử đã xuất hiện ở Việt Nam kể từ thập niên 1975, khi hảng Sanyo mở nhà máy ti vi và rađiô, nay là công ty Vietronics Biên Hòa dưới hình thức một thỏa hiệp môn bài- licence agreement. Nhưng sau “ Đổi Mới” ( 1986 ) công nghệ mới thật tăng trưởng có ý nghĩa. Vào thập niên 1990, một lọat công ty liên doanh với các công ty ngọai quốc được thiết lập. Nhũng năm gần đây, càng ngày càng nhiều công ty ngọai quốc đã thiết lập các chi nhánh ở Việt Nam. Tỉ như Canon Vietnam Co. Ltd, Fujitsu Viêtnam Ltd hay Intel Product Vietnam Co. Ltd. Cũng như ngành công nghệ cơ khí, ngành công nghệ điện tử có lập ra một kế họach phát triễn tòan bộ đến năm 2010 và các viễn cảnh dự tính đến năm 2020 theo quyết định chánh phủ ban hành ngày 28 tháng 5 năm 2007 số 875/2007/QĐ-TTg. Các mục tiêu là: sản xuất đồ điện tử các địa phương trong nước phải đạt trị giá 4,6 tỉ đô la Mỹ, xuất khẩu đồ điện tử lên đến 3- 5 tỉ đô la, tạo ra 300 000 công ăn việc làm, mức tăng trưởng hàng năm là 20- 30% . Thật tế , theo Business Monitor International , sản xuất đồ điện tử ở Việt Nam là 1.770 tỉ năm 2006, 2.2 tỉ năm 2007, có thể là 4.451 tỉ năm 2010 và 5,510 tỉ năm 2011, có thể đến 10. 722 tỉ năm 2014. Theo các báo cáo Bộ Công Nghệ và Thương Mãi Việt Nam, năm 2009, Việt Nam đã xuất khẩu 2. 76 tỉ đô la ,tăng 4, 8 % so với năm 2008; thị trường xuất khẩu chánh là Hoa Kỳ , Nhật , Thái Lan và Trung Quốc. Năm 2009, Việt Nam nhập khẩu 3.95 tỉ đô la, tăng 6.5 %; các công ty FDI ngọai quốc là các nhà nhập khẩu chính yếu, trị giá lên đến 2, 55 tỉ. Các đồ điện tử xuất nhập là các máy computers, các linh kiện điện tử và các bộ phận. Chiếu theo các chuyên viên quốc tế, ngành điện tử Việt Nam sử dụng những kỷ thuật và thiết bị lạc hậu. Việt Nam vẫn còn ở giai đọan 1 ( nghĩa là nhập khẩu các bộ phận và ráp theo yêu cầu nội địa ), trong khi các quốc gia khác trong vùng ( Thái Lan, Singapore, Mã Lai Á, Inđônêxia và Phi Luật Tân ) đã đến giai đọan 3 ( R&D, cao kỷ - high tech hướng về xất khẩu ). Khả năng công nghệ điện tử nước nhà chỉ chủ yếu giới hạn vào lắp ráp, thiếu hẳn một khu vực hổ trợ đã phát triễn cung cấp cho nhà máy lắp ráp những thành phần, bộ phận cần thiết. Thế cho nên các công ty địa phương khó lòng cạnh tranh thắng lợi các nhãn hiệu ngọai quốc. Thị trường linh kiện điện tử ước lượng sẽ tăng 13% mỗi năm cho đến năm 2014 , các khu vực chủ yếu là các đồ cầm tay – handsets giá rẽ, các computer sổ tay – note book computers và các máy ti vi LCD. Tuy nhiên rất nhiều công ty các nước tiên tiến đã phát triễn, càng ngày càng xem Việt Nam như thể là một thay thế nhiều sức thuyết phục so với Trung Quốc . Các công ty Việt Nam thường thiếu hiểu biết – know how , kỷ thuật và tư bản so với các công ty họat động mạnh mẽ quốc tế Âu Châu, Hoa Kỳ… Mặt khác, phí tổn lao động ở các công ty Âu – Mỹ rất cao, nên khó lòng cạnh tranh ở thị trường tòan cầu. Cơ cấu phí tổn các công ty Việt Nam đầy sức hút dẫn, không thua kém Trung Quốc gì hết. Ưu diểm của Việt Nam ở rất nhiều vị thế , vì Việt Nam cung ứng lao động phẩm giá cao hơn. Việt Nam cũng bảo vệ tốt tác quyền trí thức hơn là tại nhiều quốc gia khác trong vùng.
Công nghệ hạ tầng cơ sở ( công nghệ dịch vụ )
a- Xây đường hàng không và đường bộ cao tốc
Về hàng không dân sự, từ năm 1998 Cơ Quan hàng không dân sự được chia ra làm 3 công ty công cộng để phụ trách xây dựng các công tác quản trị tổng quát và xây cất các phi cảng: Cơ quan Phi Cảng miền Bắc ở Hà Nội . Cơ quan Phi Cảng miền Trung ở Đà Nẳng và Cơ quan Phi cảng ở Thành Phố HCM- Sài Gòn. Việt Nam hiện có 23 phi cảng, 6 ở miền Bắc, 8 ở miền Trung và 9 ở miền Nam. Số phi cảng quốc tế đã được dần dần tăng lên 9 và nâng cấp mức dịch vụ trong nước và ngòai nước. Các phi cảng quan trọng nhất là phi trường quốc tế Nội Bài ở Hà Nội, phi trường quốc tế Tân Sơn Nhất TP HCM , phi trường quốc tế Đã Nẳng , phi trường quốc tế Cam Ranh ỏ hai tỉnh Khánh Hòa – Ninh Thuận và phi trường Cát Bi ở TP Hải Phòng. Còn 4 phi trường xếp hạng quốc tế khác là Cần Thơ , Chu Lai, Đà Lạt và Huế, nhưng chúng ít quan trọng hơn vì đường bay ngắn hơn. Cơ cấu hạ tầng các phi cảng chưa phát triễn thích nghi, không đủ khả năng thỏa mãn mức hành khách và hàng hóa tăng mau lẹ trong những năm tới. Hiện di chuyễn hành khách hàng không là 33 triệu, dự trù sẽ tăng lên đến 82 triệu( ? ) năm 2020. Năm 2010, Việt Nam đã được Nhật chấp thuận tài trợ xây cất phi cảng quốc tế và nội vùng Long Thành, dự án thiết lập từ năm 2006, thay cho phi cảng Tân Sơn Nhất đã quá tải. Khi hòan tất, phi cảng Long Thành có khả năng chuyên chở tối đa mỗi năm 80 – 100 triệu hành khách và 5 triệu tấn hàng hóa tổng cộng. Phi cảng rộng 6 000 ha và sẽ có 4 đường bay dài 4000 m x 60m. Giai đọan 1 cần có đầu tư khoảng 4 tỉ đô, gồm hòan tất các ga- terminals và 2 đường bay song song. Hầu đạt khả năng chuyễn dịch đến 30 triệu hành khách vào năm 2015. Hai đường bay sẽ giúp cất cánh hay hạ cánh cùng lúc, ngay cả các phi cơ siêu jumbo A 380 và Boeing 747 .
Tháng 7 năm 2013, Chủ tịch Nguyễn Nguyên Hùng ( ? ) Tổ Hợp các Phi Cảng Việt Nam - Airports Corporation, ACV, kêu gọi xây cất Phi Cảng Quốc tế Long Thành để giải tỏa ứ tắc Phi cảng Tân Sơn Nhất và hổ trợ phát triễn kinh tế tỉnh Đồng Nai – Biên Hòa. Giai đoạn 1 trị gía 7.8 tỉ $US. Xây cất có thể khởi sự năm 2014 và hòan tất năm 2020. Tháng 2 năm 2014, Chánh phủ Việt Nam chánh thức yêu cầu Nhật cấp ngân khỏan xây cất phi cảng Long Thành , hy vọng khởi công đầu năm 2016 .Tháng tư năm 2014, 13 trong số 16 Ủy Ban xét lại giá trị Phi cảng Long Thành bỏ phiếu chấp thuận dự án tái định để Chánh phủ đệ trình Quốc Hội thẩm xét tháng 5 năm 2014 . Tháng 6 năm 2015 , ACV xác nhận là chánh sách đầu tư Phi cảng Long Thành đã được Quốc Hội chấp thuận, giúp cho các họat động khả thi, đề nghị theo phát triễn tiêu chuẫn 4F ( ? ) có cơ bắt đầu. Tổng số chi phí ước lượng lại là 16 tỉ $US. Chi phí dọn sạch và tái định cư hạ xuống còn 454 triệu đô la US từ 989 triệu . Xây cất giai đọan 1 sẽ tốn 5.23 tỉ $US , nghĩa là 2.6 tỉ $ US ít hơn các ước lượng ban đầu. Tháng 7 năm 2015, ACV cho biết dự tính bắt đầu công trình xây dựng vào năm 2019. Tiến trình tư vấn họa kiểu dự án 16 tỉ $US này mất chừng 15 đến 17 tháng , trong khi lựa chọn người đầu tư và chương trình bỏ thầu –tender programme cần 6 đến 8 tháng, vì Bộ Giao Thông dự trù cho bỏ thầu qua một tiến trình đấu thầu quốc tế .Tháng 8 năm 2015 , Bộ Giao thông cho biết sẽ tổ chức bỏ thầu lựa lực chọn Tư Vấn Nghiên cứu Khả thi- Feasibility Study Con sultant tháng 10 năm 2015…
Về đường bộ, ngòai xa lộ số 51 đã hòan tất, chánh quyền đang cố sức thực hiện hai xa lộ cao tốc – expressway để dễ dãi chuyễn dịch hành khách tới và đi khỏi phi cảng quốc tế Long Thành. Đó là xa lộ cao tốc TP Hồ chí Minh - Long Thành - Dầu Giây ( Dầu Giây là mối nối trước đây của quốc lộ 1 với Quốc lộ 20 đường lên Lâm Đồng Tây Nguyên- Bảo Lộc – Đà Lạt) có 10 lằn , nối Long Thành với TP HCM. Xa lộ cao tốc này dài 55 km tổng phí 932 triệu đô la đã được JICA- ODA và ADB- OCR cho vay thực hiện. Xa lộ cao tốc thứ hai Biên Hòa – Vũng Tàu , có 8 lằn sẽ nối thị xã Biên Hòa với thị xã Vũng Tàu.
Ngày 21 tháng 7 , thủ tướng đã khánh thành đọan 4.7 km đường cao tốc Bến Lức- Long Thành dài 57 km giúp rút ngắn khoảng cách nối vùng Đông Nam nước nhà với Châu thổ Sông Cửu Long. Gói tổn phí đầu tiên tốn 2.4 ngàn tỉ ĐVN . gồm có một cầu treo cáp dây văng – cable stay bridge, bắt ngang qua sông Chà và một đường vượt cầu trên – overpass xuyên qua quận Cần Giờ ,TP HCM. Môt quần hợp , công xóc xium- consortium gồm nhà thầu Nhật Sumitomo Mitsui và hảng địa phương chung sức Cianco 4 - Civil Engineering Construction Corporation là nhà đấu thầu gói hàng này . Cao tốc mới này sẽ nối kết những hải cảng chánh miền Nam như Thị Vải – Cái Mép và Sao Mai -Bến Đình và dẫn tới Phi cảng Quốc tế Long Thành, sẽ là phi cảng quốc tế lớn nhất Việt Nam. vì phải cần 4 năm mới làm xong dự án, cho nên cũng cần đến 4 năm nữa, vào năm 2018 mới hòan tất 57 km cao tốc này. Đây là một xa lộ 4 lằn , tốc độ họa kiểu cho xe chạy tối đa là 100 km /giờ . Giai đọan 1 tốn 1.6 tỉ $US , 636 triệu là từ Ngân Hàng Phát triễn Á Châu ADB , 635 triệu là từ chánh phủ Nhật qua Cơ Quan Hợp tác JICA và 337 triệu còn lại là từ ngân sách Việt Nam .
b- Đường sắt và cảng sông
Đường xe lữa Thống Nhất Nam Bắc, vào thời gian 2015- 2020, sẽ không còn đi qua trung tâm tỉnh lỵ Biên Hòa nữa, mà sẽ chuyễn từ ga Trảng Bom đến ga mới Biên Hòa ,ở phường Bình Tân. Xây dựng đường xe lữa mới ( ? ) từ ga Biên Hoà mới đến Bà Rịa- Vũng Tàu ( song song với Quốc lộ 51 ? ). TP Biên Hòa còn dự trụ xây 3 đường sắt đô thị - urban railways: Ngã rẽ đường xe buýt Chợ Sạt- Vũng Tàu nối TPHCM –Thủ Đức – Q uận 9 , đường sắt cao Biên Hòa – cầu Hang- Dĩ An, đường sắt sông Cái bao quanh Thành phố ; thị trấn Nhơn Trạch sẽ làm một đường sắt cao tốc từ Thủ Thiêm theo hành lang xa lộ TP HCM – Long Thành – Dầu Giây; đường quận 9- Nhơn Trạch và đường 25B đến phi trường Long Thành ( sau xâycất phi trường Long Thành) .
Cảng trên sông Thị Vãi: Gò Dầu A khả năng là 1-1.3 triệu tấn một năm, tàu trọng tải 5000 – 10 000 DWT cập bến được; Gò Dầu B khả năng 1.5- 4.2 triệu tấn/năm, tàu 15 000 – 25 000 DWT cập bến được và cảng Phước An khả năng công teng nơ là 60 – 10 triệu tấn/năm ; cảng Phước Thái khả năng 1.13 triệu tấn/năm hàng hóa khô rắn và 1.42 triệu tấn hàng hóa lỏng, tàu 10 000 – 20 000 DWT cập bến được . Cảng trên sông Nhà Bè - Long Tàu là cảng Phú Hửu khả năng 2- 3 triệu tấn /năm tàu 20 000 DWT cập bến được ; 76 xưởng sửa chửa tàu trọng tải đến 50 000 DWT ; cảng dầu lữa Phước Khánh đón được tàu 25 000 DWT; cảng dầu nhớt Trâm Anh đón được tàu 2000 – 5000 DWT ; cảng nhiên liệu COMECO đón được tàu 25 000 DWT ; Phù Đổng là cảng gỗ; Viko Wochimex là cảng gỗ bào – wood chips; Nhơn Trạch là cảng vật liệu xây cất khả năng 1. 16 triệu tấn/ năm, tàu 20 000 DWT cập bến được và Sunteel là cảng nhận xi măng, bột xỉ lò – slag powder .
Cảng sông Đồng Nai nới rộng cảng Đồng Nai, khả năng 1 triệu tấn/ năm tàu 5000 DWT cập bến được ; tổng cảng Phú Hửu sẽ có khả năng đón nhận tàu 30 000DWT vào năm 2015, cũng cố cảng của hảng dầu lữa đón nhận tàu cung cấp nhiên liệu từ 1000 đến 2500 DWT và cảng VN SCTGAS nhâ,n tàu 1000 DWT
c- Công nghệ Thông Tin ( IT )
Như đã kể trên , tỉnh Đồng Nai đã góp phần xây dựng công nghệ thông tin Việt Nam với Fujitsu , Canon v.v…
Công nghệ Thông Tin là một trong bốn công nghệ trọng điểm ( cơ khí, điện tử -thôngtin, hóa chất- nhựa cao su, tinh chế biến lương thực thực phẩm ) Việt Nam đang cố tâm phát triễn, nhưng vẫn còn phôi thai lắm. Ngành này hiện sử dụng 200 000 nhân viên hoạt động phần cứng – hard ware, phần mềm – software và doanh vụ có chứa kỷ thuật số - digital content. Trong số này 15 000 người được xem là chuyên môn xuất sắc. Việt Nam có 500 hảng phần mềm tích cực, gồm luôn 19 công ty liên doanh – joint ventures , sử dụng tổng cọng 57 000 nhân viên. Khỏang 300 công ty liên hệ đến nguồn ngọai – outsourcing. Đa số công ty kích thước nhỏ với 10- 50 nhân viên cung cấp các ứng dụng căn bản trang web, tìm giải pháp đặc thù cho khách hàng và làm cố vấn IT ( công nghệ thông tin ). 20 công ty đầu sổ có 100- 500 nhân viên.
Khỏang 40 công ty đã có các văn bằng phẩm giá quốc tế tỉ như ISO 9001, ISO 27001 và chừng 20 công ty đã có văn bằng Kiểu Mẩu Khả năng Trưởng Thành – Capability Maturity Model ( CMM ) mức 3, 4 hay 5. Các hảng dẫn đạo nguồn ngọai là FPT Software , CSC, TMA, Lạc Việt , CMC,Tinh Vân. Khách hàng chánh là từ Nhật Bổn, Hoa Kỳ , Úc Châu và Hiệp hội Âu Châu – EU. Năm 2000, tổng số lợi tức cho công nghệ phần mềm chỉ mới đạt 50 triệu đô la, nhưng năm 2009 đã lên đến 880 triệu đô la, với một tỉ xuất tăng trưởng vững chắc khỏang 20-25 % một năm.
Tổng số lợi tức công nghệ thông tin IT năm 2009 là 6. 26 tỉ đô la Mỹ, tăng 20 % so với năm 2008. Phần cứng góp phần lớn nhất về tăng gia này, chiếm 75 %. Công nghệ phần cứng Việt Nam sử dụng 110 000 nhân viên năm 2008, đa số họat động chánh ở ngành điện tử và ráp máy computer. Các công ty quốc tế công nghệ thông tin ICT tỉ như Intel, IBM, Cisco Nortel, Compaq, Hewlett- Packard, Sony, Fujitsu, Hitachi, Canon, Daiwa, Fuji, NTT, Panasonic, NEC, Foxcom, Compal, Hon Hai, đã có nhà máy ở Việt Nam. Hiện Việt Nam có trên 30 nhà máy ráp computers .
Việt Nam nhắm mục đích trở thành một quốc gia công nghệ thông tin mạnh mẽ vào năm 2015, đặt mục tiêu tổng lợi tức ngành chiếm 17- 20% GDP. 53 triệu đô la sẽ được chi tiêu đạo tào nguồn nhân lực phát triễn IT nước nhà. Việt Nam nhắm đào tạo 1 triệu kỷ sư IT và 23 công viên cao kỷ vào năm 2020. Hiện đã có 10 công viên cao kỷ họat động, một số ở tỉnh Đồng Nai như đã kể trên.
Vì lạm bàn phát triễn cho tỉnh Đồng Nai đã quá dài và vì ở những lảnh vực khác như công nghệ viễn thông( đạt tiến bộ đáng kinh ngạc những năm gần đây; năm 2009 sau 2.1 tỉ đô la đầu tư vào hạ tầng cơ sở 3G, dịch vụ cần thiết cho internet di động, gọi viđêô – viodeo call và Ti vi di động- mobile TV đã có 13 triệu người thuê – subcribers đăng ký, nhưng IBM cho biết thật sự chỉ mới có 100 000 nguời thuê mướn … ), công nghệ xây cất và bất động sản, thuơng xá tân tiến, khu gia cư cận đại, công nghệ Âu dược và Nam dược, hóa chất, dụng cụ y khoa, ngân hàng, bảo hiểm v.v … không chỉ tỉnh Đồng Nai mới đặc sắc, trội hẳn lên … nên chúng tôi sẽ có cơ hội lạm bàn những kỳ tới . Ai muốn biết thêm hiện trạng đến năm 2011, xin tham khảo tài liệu 2010 Report on ViêtNam của các Cố Vấn Kinh tế và Thương Mãi Hiệp Hội Âu Châu, trình bày tháng 6 năm 2010 ở Hà Nội.
( Irvine ngày 9 tháng 6 năm 2011, bổ sung ngày 19 tháng 8 năm 2015 )