20/8/2015
Người Việt phải hiểu rỏ hơn nữa:
Singapore ngày nay
G S Tôn thất Trình
|
Phần II :
Cộng Hòa Singapore ( 1965 đến nay )
1965 - 1979
Sau khi đột ngột nhân độc lập, Singapore đối diện một tương lai đầy những điều chưa biết rỏ . Đối mặt Konfrontasi tiếp diễn và phe phái UMNO bảo thủ chống đối cực kỳ chia lìa- tách rời; Singapore đối diện các hiểm nguy quân sự Inđô nêxia tấn công và cuộc tái hội nhập bó buộc vào Liên Bang Mã Lai Á, theo các từ ngữ không thuận lợi . Đa số báo chí truyền thông quốc tế đều nghi ngờ viễn ảnh của Singapore sống sót . Ngòai khía cạnh chủ quyền tối cao , các vấn đề cấp bách là thất nghiệp, gia cư, giáo dục, thiếu thốn tài nguyên thiên nhiên và đất đai. Thất nghiệp từ 10 đến 12 %, đe dọa kích động bất ổn dân sự.
Singapore tức tốc tìm kiếm quốc tế nhìn nhận chủ quyền tối cao - sovereignty . Quốc gía mới mẽ gia nhập Liên Hiệp Quốc ngày 21 tháng 9 năm 1965 , trở thành hội viên thứ 117 và gia nhập Khối Thịnh Vượng Chung - Commonwealth tháng 10 nắm đó. Ngọai trưởng Sinnathamby Rajaratnam cầm đầu bộ ngọai giao mới, giúp cho Singapore khẳng định nền độc lập của Singapore và thiết lập quan hệ ngọai giao với các quốc gia khác. Ngày 22 tháng 12 năm 1965, Đạo luật Tu chỉnh Hiến Pháp được thông qua và Chủ tịch nước trở thành Tổng thống và Quốc gia Singapore trở thành Cộng Hòa Singapore. Sau đó, Singapore là đồng thiết lập viên của Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á - ASEAN ngày 8 tháng 8 năm 1967 và được gia nhập Phong trào các Quốc gia Không liên kết- Non Aligned Movement , năm 1970.
Ủy Ban Phát triễn Kinh tế đã được thànhlập năm 1961, để họach định và thực thi các chiến lược kinh tế quốc gia, tụ điểm trên đề xướng khu vực chế tạo của Singapore. Các công ty công nghệ -Industrial estates được thiết lập, đặc biệt ở Jurong và đầu tư ngọai quốc được hút dẫn vào Singapore bằng các khích lệ thuế khóa. Công nghệ biến khu vực chế tạo thành một khu vực hàng hóa giá trị thêm to cao hơn và thâu đạt lợi tức cao hơn. Công nghệ dịch vụ cũng tăng gia vào thời gian này, thúc đẩy yêu cầu dịch vụ bằng tàu bè ghé hải cảng, và làm tăng thương mãi. Tiến bộ này giúp giảm bớt khủng hỏang thất nghiệp. Singapore cũng hút dẫn các công ty dầu lữa lớn tỉ như Shell, và Esso thiết lập nhà máy lọc dầu ở Singapore và đến giữa thập niên1970, trở thành trung tâm lọc dầu đứng hàng thứ ba thế giới . Chánh phủ đầu tư mạnh mẽ vào hệ thống gíao dục và chấp nhận Anh ngữ là một ngôn ngữ học vấn và nhấn mạnh đến huấn nghệ thực tiễn hầu phát triễn một lực lượng lao động thông thạo thích nghi cho công nghệ .
Thiếu thốn gia cư- nhà ở công cọng, thiếu vệ sinh và thất nghiệp cao đem tới các vấn đề xã hội, từ tội hình đến các khía cạnh sức khỏe. Các khu định cư chiếm đất công - squatter settlements có thành quả là các cơ nguy an tòan và gây Cháy lớn ở khu Bukit Ho Swee Squatter Fire năm 1961, giết chết 4 người và làm cho 16 000 người vô gia cư. Ủy ban Phát triễn Gia cư- Housing Development Board , HDB , thiết lập trước độc lập, tiếp tục thành công lớn lao và các dự án xây cất đồ sộ mọc lên nhiều để cung cấp nhà ở công cộng rẽ tiền để cấp cho những kẻ chiếm đất công. Trong vòng một chục năm, đa số dân đã đến ở các nhà này . Kế Sách Gia cư Tài trợ ngân khoản Trung Ương - Central Provident Housing Scheme , đưa vào năm 1968, giúp các cư dân sử dụng các trương mục tiết kiệm bắt buộc mua các cư gia HDB, tăng dần dần thành gia chủ ở Singapore .
Quân lính Anh vẫn còn đóng ở Singapore sau độc lập, nhưng năm 1968, London tuyên bố quyết đinh rút hết mọi lực lượng vào năm1971. Với sự giúp đở bí mật của các cố vấn quân sự từ Israel, Singapore mau lẹ thiết lập Lực lượng Quân đội Singapore, nhờ giúp đở của một chương trình quân dịch quốc gia đưa vào năm1967. Kể từ độc lập, quốc phòng Singapore chiếm khỏang 5 % GDP. Ngày nay , Lực Lượng Quân đội Singapore có tiếng là một trong những quân đội trang bị tốt nhất ở Á Châu .
Các thập niên 1980s và 1990s
Thành công kinh tế tiếp tục suốt thấp niên 1980 , với thất nghiệp chỉ còn 3% và tăng trưởng thật sự của GDP trung bình là 8% mãi cho đến năm 1999 Trong thập niên 1980 , Singapore bắt đầu nâng cấp vào các công nghệ cao kỷ tỉ như khu vực chế tạo xi mảnh ( ? ) -wafer fabrication, hầu cạnh tranh với các nuớc láng giềng nay có gíá nhân công lao động rất rẻ. Phi trường Tràng (Trường) tế ( kế , cát )- Changi khai trương năm 1981 và hảnh Hàng Không Singapore Airlines phát tiễn thành một hảng lớn thế giới . Hải cảng Singapore trở thành một cảng rộn rịp nhất thế giới, các công nghệ dịch vụ và du lịch cũng tăng gia lớn lao trong thời gian này. Singapore trổi dậy như thể là một điểm trọng tâm chuyên chở quan trọng và là một nơi du lịch chánh yếu.
HDB tiếp tục đề xướng gia cư công cộng ở các thị trấn mới tỉ như Ang Mo Kio - Áng Mộ khẩu ( ? ) được họa kiểu và xây cất. Các khu gia cư mới có những căn hộ rộng hơn, lớn hơn, tiện nghi tốt hơn. Ngày nay, 80- 90 % dân số sống trong các căn hộ HDB. Năm 1987, Đường Chuyễn dịch Khối lượng Cao tốc Mau lẹ - Mass Rapid Transit , MRT đầu tiên bắt đầu họat động , nối phần lớn các khu gia cư với trung tâm thị trấn.
Tình trạng chính trị vẫn do đảng PAP chủ trì . PAP đoạt mọi ghế Quốc Hội ở mỗi cuộc bầu cử giữa các năm1966 và 1981. Nền cai trị của PAP được vài tay tích cực và chánh trị gia đối lập xem như là độc đóan, vi họ nhin các điều hòa nghiêm khắc họat động chánh trị và báo chí truyền thông của chánh phủ là một vi phạm quyền hạn chánh trị. Kết án chánh trị gia đối lập Chee Soon Juan vì các phản đối bất hợp pháp và các kiện cáo-tố tụng bôi nhọ J. B. Jeyaretman được các đảng đối lập kể ra làm những thí dụ cho độc đóan này . Thiếu phân chia quyền hạn giữa hệ thống tòa án và chánh phủ, cũng làm các đảng đối lập xem như là một lỗi lầm tư pháp .
Chánh phủ Singapore thực thi nhiều thay đổi đáng kể. Các Hội viên không là thành phần Hiến Pháp Quốc Hội đượcc đưa vào năm 1984 , giúp cho 3 ứng cử viên đối lập thất cử trở thành Hội viên Quốc Hội - member of Parliament, MP. Nhóm Đại diện Cử tri- Group Representation Constituencies , GRC được đưa vào năm 1988, để tạo dựng các phân chia bầu cử đa ghế - multi seat , có mục đích là bảo đảm một đại diện thiểu số ở Quốc Hội. Nghị viên chỉ định Quốc hội - Nominated Members of Parliament cũng được đưa vào năm 1990, gíúp làm ra các MP không bầu cử, không bè phái .
Hiến Pháp cũng được tu chỉnh năm 1991, cung cấp một Tổng thống được bầu lên , có quyền kháng quyết - veto power về cách sử dụng các dự trữ quốc gia và các bổ nhiệm công chức. Các đảng đối lập than phiền là hệ thống GRC,làm họ khó lòng dành được ghế ở bầu cử quốc hội Singapore và hệ thống bầu cử đa phương -plurality voting system có khuynh hướng đào bỏ các đảng thiểu số ra ngoài.
Năm 1990, Lý Quang Diệu trao quyền lảnh đạo cho Goh Chok Tong , trở thành thủ tứơng thứ hai Singapore. Goh đại diện một phương cách lảnh đạo cởi mở và tư vấn hơn, khi Singapore tiếp tục cận đại hóa . Năm 1997, Singapore bị ảnh hưởng của Khủng hỏang tài chánh Á Châu và nhiều biện pháp cứng rắn, tỉ như cắt bớt góp phần CPF, đem ra thi hành. Các chương trình của Lý ở Singapore , có một ảnh hưởng sâu đậm đến lảnh đạo cọng sản Trung Quốc , đặc biệt dưới thời Đặng Tiểu Bình - Deng Xiaoping, một cố gắng thi đua các chánh sách của Lý về tăng trưởng kinh tế, doanh nghiệp và đàn áp tế nhị đối lập. ( Xin xem bài số IV và số V năm 2011 về Trung Quốc Đặng Tiểu Bình, ở blog ton that - ton nu ). Hơn 22 000 chức quyền Tàu được gửi đến Singapore học hỏi các phương pháp của Lý Quang Diệu .
2000 đến nay
Đầu thiên niên 2000
Đầu thiên niên 2000, Singapore trải qua vài khủng hỏang hậu -độc lập, kể cả bùng nổ SARS năm 2003 và khủng bố đe dọa. Thàng 12 năm 2001, một mưu kế cho nổ bom các tòa đại sứ và các hạ tầng cơ sở khác ở Singapore được khám phá , và có đến 36 hội viên nhóm Jemaah Islamiyah bị bắt giữ theo điều khoản Đạo Luật Nội An. Các biện pháp chánh chống khủng bố được đặt ra để dò tìm và ngăn ngừa khủng bố tiềm thế, tối thiểu tai hại lỡ khi chúng xảy ra. Nhấn mạnh nhiều hơn đến đề cao hội nhập xã hội quốc gia và lòng tin cậy giữa các cộng đồng khác nhau.
Năm 2004 , Lý Hiển Long( ? ) - Lee Hsien Loong , con trưởng Lý Quang Diệu trở thành thủ tướng Singapore thứ ba. Loong đưa vào nhiều thay đổi chánh trị , gồm cả gỉam bớt thời gian đi quân dịch quốc gia từ 2 năm rưỡi xuống 2 năm và hợp pháp hóa đánh bạc casinô. Các cố gắng khác cố nâng cao uy tín hình dạng tòan cầu của Singapore như tái lập Singapore Grand Prix năm 2008, và tổ chức Thế Vận Hội Thanh Niên Hè 2010.
Tổng tuyễn cử năm 2006 là một bầu cử cột mốc ,vì sử dụng chánh yếu Internet và Blogging để bao quát và tranh biện về bầu cử , khỏi tay báo chí truyền thông chánh thức . PAP trở lại nắm chánh quyền , đoạt 82 ghế trong số 84 ghế Quốc Hội và chíếm 66 % số người đi bầu . Năm 2005 , hai cựu Tổng thống Wee Kim Wee và Devan Nair chết.
2010 - 2020
Tổng tuyễn cử năm 2011, cũng là một bầu cử phân thủy khác, vì lần đầu tiên PAP thất bại, mất đi GRC cho đảng đối lập WP. 4 năm sau, Lý Quang Diệu, cha gìà quốc gia và là thủ tướng đầu tiên Singapore chết, ngày 23 tháng 3 năm 2015 .
Phần III : Kinh tế Singapore
Tổng quát
Nhắc lại Singapore là một nền kinh tế thị trường hướng về thương mãi phát triễn rất cao. Nền kinh tế này xếp hạng là mở cửa rộng nhất thế giới , đứng hàng thứ 7 về ít tham nhũng - least corrupt , ủng hộ đoanh nghiệp nhất, tỉ xuất thuế khóa thấp, ( 14.2 % GDP) va ` GDP mỗi đầu người đứng hạng 3 thế giới, tính theo Sức Mua Tương Đương- Purchasing Power Parity, PPP . PPP mỗi đầu người ước luợng năm 2015 là 85 427$ , trên 4 lần hơn năm 2001 là 20 767 $ . Các công ty liên kết với Chánh phủ đóng một vai trò thực tế vạm vỡ ở kinh tế Singapore làm chủ nhân xuyên qua qủy tài chánh chủ quyền tối cao Tài sản Temasek Holdings chiếm đa số trên nhiều công ty lớn nhất nước, tỉ như Hàng Không Singapore Airlines, SingTel , ST Engineering and MediaCorp. Nền kinh tế Singapore cũng là nhà lượng chảy tài chánh chánh yếu của Đầu tư Ngọai quốc Trực tíếp - Foreign Direct Investment, FDI thế giới. Singapore đã thừa hưởng lợi ích cuả dòng chảy hướng bên trong của FDI từ các nhà đầu tư và thể chế tòan cầu, nhờ không khí đầu tư hút dẫn cao độ và một môi trường chánh trị ổn định.
Xuất khẩu. đặc biệt về đồ điện tử, hóa chất và dịch vụ gồm tình huống Singapore là trọng tâm vùng cho xử lý tài lợi- giàu có cung cấp nguồn lợi tức chánh cho kinh tế, cho phép mua các tài nguyên thiên nhiên và nguyên liệu thô Singapore rất thiếu thốn. Hơn nữa, nước rất khan hiểm ở Singapore, cho nên nước được định nghĩa là một tài nguyên quí báu song song với khan hiếm đất đai ; phải giải quyết bằng lấp đổ đầy đất ở Pulau Semakau ( có khi bằng cát bùn nạo vét các lòng sông miền Nam Việt Nam ? , Căm Bốt ? ). Singapore cũng không có đất trồng trọt, có nghĩa là phải dựa vào công viên kỷ nông- agrotechnology park để sản xuất và tiêu thụ nông nghiệp. Tài nguyên con người là một vấn đề sinh tử khác cho sức khỏe kinh tế Singapore. Kinh tế Singapore đứng thứ hai theo cách xếp hạng của Kỷ Sinh học Khoa học Hoa Kỳ, năm 2014, với đặc điểm của khu Phố Kỷ Sinh- Biopolis .
Như vậy, có thể nói rằng Singapore trông cậy vào một khái niệm nới rộng của thương mãi trung gian thành một thương mãi Kho trữ hàng - Entrepôt trade , mua nguyên liệu thô rồi tinh luyện chúng để tái xuất khẩu, tỉ như chế tạo mảnh xi - wafer fabrication và lọc dầu lữa . Singapore đã có một hải cảng chiến lược làm cảng cạnh tranh hơn là nhiều cảng các nước láng giềng chuyên chở các họat động kho trữ hàng. Tỉ xuất thương mãi trên GDP Singapore cao nhất thế giới, trung bình chừng 400% trong thời gian 2008 - 11. Cảng Singapore rộn rịp đứng hàng thứ ba thế giới về số hàng hóa chở tàu thủy - cargo tonnage . Thêm vào đó, hạ tầng cơ sở cảng Singapore và lực lượng lao động lành nghề do chánh sách giáo dục quốc gia đầy thành công đào tạo ra nhân công lành nghề , cũng rất căn bản cho khía cạnh này, vì chúng cung cấp đường vào dễ dàng hơn đến các thị trường cho nhập khẩu lẫn xuất khẩu và cũng cung cấp thông thạo cần thiết tinh luyện nhập khẩu để xuất khẩu.
Chánh phủ Singapore đề xướng các mức tiết kiệm và đầu tư cao theo các chánh sách tỉ như Quỷ Cung cấpTrung ương - Central Provident Fund dùng để tài trợ săn sóc sức khỏe dân gian và các yêu cầu nghĩ hưu. Tiết kiệm Singapore đã duy trì là nằm trong số cao nhất thế giới từ thập niên 1970 . Đa số công ty ở Singapore đã đăng ký như thể các công ty trách nhiệm pháp lý hửu hạn tư - private limited- liability ( thường gọi la “ công ty tư hửu hạn”) một công ty tư hửu hạn ở Singapore là một thể nhân hợp pháp riêng biệt - separate legal entity, và các cổ đông - shareholders không chịu trách nhiệm cho các nợ của công ty lớn hơn số lượng cổ phần tư bản họ đã góp vào .
Hầu giữ vững thế đứng quốc tế và tiến lên thêm phồn thịnh kinh tế ở thế kỷ thứ 21, Singapore đã ban hành nhiều biện pháp đề cao sáng kiến, khuyến khích tính doanh nghiêp , tái huấn nghệ lực lượng lao động mình, ngay cả hút dẫn các tài năng ngọai quốc . Hầu hút dẫn tài năng ngọai quốc, chánh phủ Singapore đã ban hành các Thẻ Nhân dụng - Employment Pass , EP theo 3 hạng : Thẻ P1 cho những ai có lợi tức từ 8000$ hay hơn nữa, P2 cho các cá nhân lương tháng từ 4500 $ đến 7999 $, và Q1 cho ai lợi tức hàng tháng dưới 3000$. Các chuyên gia ngọai quốc lương trên 18 000$ hay những ai đang có thẻ EP lương trên 12 000$ có thể được cấp một Thẻ Nhân Dụng Cá nhân hóa - Personalized Employment Pass, PEP , cung cấp mềm dẽo lớn hơn EP thường lệ. Bộ Nhân công - Ministry of Manpower , MoM , giám sát các vấn đề liên quan tới lao động di cư. Các biện pháp này có mục đích bổ sung hiệu năng Singapore, để Singapore luôn luôn duy trì cạnh tranh và sẳn sàng đối phó mọi thách thức nền kinh tế thế giới do thông tin thúc đẩy.
Lịch sử kinh tế Singapore
Khi rời khỏi Mã Lai Á thành quốc gia độc lập năm 1965, Singapore đã phải đối diện một thị trường nội địa bé nhỏ, những mức cao thất nghiệp và nghèo khổ . 70 % gia thất Singapore sinh sống trong những điều kiện quá đông đúc tệ hại . Và một phần ba dân gian cư trú trên đất công với những khu ổ chuột quanh các bìa rìa thị trấn , thành phố. Thất nghiệp đến 14 %, GDP mỗi đầu người là 516$ US và phân nữa dân chúng vô học , không biết chữ. Tuy vậy cũng không mấy kém GĐP mỗi đầu người Thành phố phát đạt miền Nam Cần Thơ năm 1994 chỉ mới 681 $ .Để trả lời, chánh phủ Singapore thiết lập Ủy Ban Phát trin Kinh tế - Economic Development Board để làm giáo đầu cho một thúc đẩy đầu tư , và làm cho Singapore trở thành một nơi hấp dãn đầu tư ngọai quốc . Dòng chảy bên trong FDI tăng mau trong những thập niên kế tiếp ; và đến năm 2001 các công ty ngọai quốc chiếm 75% sản lượng chế tạo và 85% xuất khẩu chế tạo. Trong lúc đó , tỉ xuất tiết kiệm và đầu tư Singapore tăng vọt lên đến các mức cao nhất thế giới, và tiêu thụ gia thất cùng phần chia sẽ lương bổng của GDP trụt xuống các mức thấp nhất .
Thành quả của thúc đẩy đầu tư này là cổ phần tư bản Singapore tăng lên 33 lần đến năm 1992 , 10 lần tỉ xuất tư bản - lao động. Đời sống tăng đều đặn , nhiều gia đình di chuyễn từ tình trạng lợi tức kém lên an ninh trung lưu với lợi tức gia thất cao hơn. Trong diễn văn Ngày Quốc Khánh 1987 , Lý Quang Diệu , tuyên bố , căn cứ trên tiêu chuẩn chủ nhân nhà cửa , 80% dân Singapore nay có thể xem là thuộc giới trung lưu. Tuy nhiên, không giống các chánh sách Hy Lạp-Greece và phần Âu Châu còn lại, Singapore theo đuổi một chánh sách cá nhân hóa một mạng lưới an toàn xã hội . Điều này đưa tới những tỉ xuất tiết kiệm trung bình cao hơn và trong dài hạn một nền kinh tế rất vững bền. Không có một loại an sinh xã hội hay điều tương tự đè nặng, Singapore đã phát triễn một lực lượng lao động lành nghề tự tín -sành sỏi cho kinh tế toàn cầu.
Chánh sách kinh tế Singapore đã sản xuất tăng trưởng thật sự trung bình 8% từ 1960 đến 1999. Kinh tế lên lại năm 1999, sau khủng hoảng tài chánh vùng, với tỉ xuất tăng trưởng là 5.4% và tiếp theo là 9.9% năm 2000. Tuy nhiên, kinh tế chậm lại ở Hoa Kỳ, Nhật, và Hiệp Hội Âu Châu cũng như đình trệ điện tử khắp thế giới, đã làm giảm tăng trưởng kinh tế ước lượng năm 2001 trở nên âm tính - 2.0 % . Năm sau, kinh tế tăng lại thêm 2.2% và 1.1 % năm 2003, khi SARS bùng nổ. Năm 2004, phục hồi đáng kể tăng 8.3%, dù rằng tăng trưởng thấp hơn mức dự trù hơn phân nữa, chỉ 2.5%. Năm 2005, mức tăng kinh tế là 6.4% và năm 2006 là 7.9 %.
Đến ngày 8 tháng 6 năm 2013, tỉ lệ thất nghiệp Singapore là khoảng 1.9 % và kinh tế quốc gia cóo một tỉ xuất tăng trưởng kém hơn , chỉ là 1.8 % so với 14.8 % năm 2010.
Đầu tư và Doanh vụ quốc doanh
Lảnh vực công được sử dụng vừa là một đầu tư vừa là một xúc tác phát triễn kinh tế và sáng kiến. Chánh phủ Singapore nắm hai qủy tài sản -giàu có -wealth funds chủ quyền tối cao, Temasek Holdings và GIC Private Limited dùng để xử lý các dự trữ quốc gia. Thoạt tiên vai trò quốc gia được hướng về xử lý công nghệ giúp cho phát triễn, nhưng những thập niên gần đây, mục đích các quỷ tài sản tối cao Singapore chuyễn qua một căn bản thương mãi .
Các tổ hợp liên kết với chánh quyền- GLC đóng một vai trò đáng lưu ý trong nền kinh tế nội địa Singapore. Tính đến tháng11 năm 2011, 6 GLC Singapore liệt kê ở chóp bu, chiếm 17% tổng số tư bản hóa của Thị Trường Hối Đóai- Singagore Exchange, SGX. Các công ty quốc doanh hay bán phần quốc doanh này họat động theo căn bản thương mãi và không được trợ cấp gì hơn các công ty tư cả thảy . Quốc doanh chủ trì các khu vực kinh tế chiến lược, gồm luôn cả viễn thông, báo chí truyền thông, chuyên chở công cọng, quốc phòng, hải cảng các họat động phi cảng cũng như ngân hàng, chuyên chở tàu thủy, hàng không, hạ tầng cơ sở và gia cư .
Năm 2014, Temasek nắm giữ 69 tỉ đô la Singapore tích sản ở Singapore, chiếm 7% tổng số tư bản của các công ty liệt kê.
Khu vực
Hầu giữ vững vị trí cạnh tranh dù giá nhân công lên cao, chánh phủ cố tìm kiếm đề cao các họat động giá trị thêm cao hơn ở các lảnh vực chế tạo và dịch vụ. Chánh phủ cũng đã mở hay sắp mở các dịch vụ tài chánh, viễn thông, phát điện và bán lẽ cho các nhà cung cấp dịch vụ ngọai quốc và cạnh tranh mạnh mẽ hơn. Chánh phủ cũng đã cố gắng thực thi vài biện pháp tỉ như hạn chế lương bổng và giải tỏa các xây cất không sử dụng, trong một cố tâm kiểm sóat gíá cho thuê thương mãi tăng gia, với nhãn quan là hạ thấp phí tổn làm doanh nghiệp tại Singapore, khi giá cho thuê ở quận thương mãi trung ương tăng lên gấp ba vào năm 2006.
Ngân Hàng
Singapore là môt trung tâm chánh yếu tài chánh tòan cầu , có các ngân hàng Singapore cống hiến những tiện nghi trương mục ngân hàng tổ hợp công ty hạng nhất thế giới. Những tiện nghi này bao gồm đa tiền tệ-multiple currencies , ngân hàng internet, ngân hàng điện thọai , trương mục ngân phiếu, trương mục tiết kiệm , các thẻ tín dụng số dư nợ - credit và dư có - debit cards , tiền ký qủy kỳ hạn cố định - fixed term deposits và các dịch vụ xử lý tài sản Theo Human Rights Watch, nhờ vai trò là trung tâm chánh yếu tài chánh cho vùng , Singapore luôn luôn bị chỉ trích là đã chứa chấp nhiều trương mục ngân hàng những tài sản các lảnh đảo tham nhũng và đồng bọn thu nhập bất chính ; kể cả hàng tỉ đô la lợi tức khí dầu thiên nhiên Miến Điện dấu diếm không ghi vào các trương mục kế tóan quốc gia. Singapore đã hút dẫn các tích sản trước đây ở Thụy Sĩ vì nhiều lý do , kể luôn cả thuế vừa đánh vào các trương mục Thụy Sỉ và sự bí mật ở ngân hàng Thụy Sĩ yếu kém đi . Credit Suisse hảng lớn đứng thứ hai ngân hàng Thụy Sĩ chuyễn tổng giám đốc ngành ngân hàng quốc tế tư dến Singapore năm 2005 .
Trốn thuế là bất hợp pháp ở Singapore , tuy nhiên, theo Tổ chức Hơp tác và Phát triễn OECD , các chức quyền Singapore có khuynh hướng hợp tác với chức quyền thuế khóa các quốc gia khác, chỉ khi nào liên quan đến trốn thuế Singapore mà thôi .
Kỷ thuật Sinh học ( Sinh kỷ )
Singapore năng nổ đề xướng và phát triễn một công nghệ kỷ thuật sinh học , sinh kỷ - biotechnology của mình. Hàng trăm triệu đô la được đầu tư vào lảnh vực này để xây đắp hạ tầng cơ sở, tài trợ khảo cứu và phát triễn và tuyển chọn các nhà khoa học quốc tế hàng đầu cho Singapore. Các hảng chế tạo thuốc Tây dẫn đạo tỉ như GlaxoSmithKline( GSK ) , Pfizer và Merck & Co. đã thiết lập nhà máy ở Singapore . Ngày 8 tháng 6 năm 2006 , GSK tuyên bố là đầu tư thêm 300 triệu $ Mỹ nữa, để xây cất một nhà máy khác sản xuất các thuốc chủng trẻ em - paediatric vaccines, cơ sở kiểu này đầu tiên ở Á Châu. Chế tạo Dược Phẩm nay chiếm hơn 8% sản xuất chế tạo quốc gia .
Năng lượng và Hạ tầng cơ sở
Singapore là trung tâm chánh yếu buôn bán thương mãi và định gíá dầu lữa ở Á Châu. Công nghệ dầu lữa chiếm 5% GDP Singapore và Singapore là một trong ba trung tâm lọc dầu hàng đầu xuất khẩu thế giới . Năm 2007, Singapore đã xuất khẩu 68.1 triệu tấn dầu. Ngành công nghệ dầu lữa đã đem tới đề xướng công nghệ hóa học cũng như chế tạo thiết bị dầu lữa và khí dầu. Singapore có 70% thị trường thế giới cho các giàn khoan kết cấu tự nâng - jack-up rigs và cho các đơn vị hóan chuyễn giảm tải Tồn trữ Sản xuất Nổi- Floating Production Storage Offloading units . Quốc gia này cũng có 20% thị trường thế giới cho sửa chửa tàu và năm 2008 công nghệ biển và ngòai khơi sử dụng 70 000 người .
Thưong mãi, Đầu tư và Viện trợ
Năm 200 , tổng số thương mãi Singapore đạt 373 tỉ $US, tăng 21 % từ năm 1999. Dù kích thước bé nhỏ , nay Singapore đứng hàng thứ 15 buôn bán với Hoa Kỳ. Năm 2000. Singapore nhập khẩu tổng cọng 135 tỉ $US và xuất khẩu 138 tỉ $US. Malaysia là nguồn nhập khẩu chánh của Singapore, cũng như là thị trườhg xuất khẩu lớn nhất, hấp thu 18% xuất khẩu Singapore, với Hoa Kỳ theo đuôi sát cánh. Malaysia là bạn buôn bán lớn nhất với Singapore . Tổng số thương mãi song phương lên đến 91 tỉ $US, năm 2012 , chiếm 1/5 tổng số thương mãi ASEAN. Buôn bán Singapore với Malaysia, Trung Quốc , Inđônêxia và Nam Hàn tăng năm 2012, trong khi buôn bán với EU27, Hoa Kỳ , Hong Kong và Nhật lại giảm năm 2012 .
Tái xuất khẩu chiếm 43 % tổng số bán của Singapore đến các nước khác năm 2000. Xuất khẩu chánh của Singapore là các sản phẩm dầu lữa, thực phẩm- thức uống, hóa chất, tơ sợi- áo quần, các bộ phận điện tử, dụng cụ viễn thông và thiết bị chuyên chở. Nhập khẩu chánh là máy bay, dầu thô, và các sản phẩm dầu lữa, các bộ phận điện tử, rađiô, và các máy hay bộ phận ti vi, xe hơi, hóa chất, thực phẩm- đồ uống, sắt-thép, các chỉ tơ sợi - vãi vóc .
Buôn bán ở Singapore đã thừa hưởng mạng lưới rộng lớn những thỏa hiệp thương mãi Singapore đã ký kết . Singapore tự do thương mãi với toàn thể mạng lưới ASEAN , thuế nhập khẩu gia gỉam khi buôn bán với Inđônêxia, Malaysia, Phi Luật Tân, Thái Lan, Brunei, Miến Điện, Căm Bốt, Lào và Việt Nam.
EDP Singapore tiếp tục hút dẫn ngân qủi đầu tư kich thước đại trà cho Quốc gia, dù rằng Singapore là thành phố tương đối có môi trường họat động phí tổn cao. Hoa Kỳ dẫn đạo đầu tư ngoại quốc , chiếm 40% các cam kết mới ở công nghệ chế tạo năm 2000 . Tính đến năm 1999, đầu tư tích lũy cho chế tạo và dịch vụ của các công ty Mỹ tại Singapore đạt gần 20 tỉ $US tổng số tích sản. Khối lượng lớn đầu tư Hoa Kỳ là ở chế tạo điện tử , lọc và tồn trữ dầu lữa và công nghệ hoá chất. Hơn 1000 công ty US họat động ở Singapore.
Chánh quyền Singapore phần lớn sạch- không tham nhũng, lực lượng lao động lành nghề , hạ tầng cơ sở tiên tiến và hửu hiệu đã hút dẫn hơn 3000 Tổ hợp Công ty Đa quốc gia- Multi ational Corporations , MNC từ Hoa Kỳ, Nhật và Âu Châu. Các hảng ngọai quốc hiện diện gần như ở mọi lảnh vực kinh tế. MNCs chiếm hơn ⅔ sản xuất chế tạo và bán ra trực tiếp xuất khẩu, dù cho vài lảnh vực dịch vụ vẫn còn do các tổ hợp liên kết chánh quyền ngự trị.
Chánh phủ cũng đã khuyến khích các hảng đầu tư ngoài Singapore ,và tổng số đầu tư trực tiếp ở ngọai quốc đạt 39 tỉ $ US, cuối năm 1998. Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc là nơi đến chánh, chiếm 14% tổng số đầu tư ở ngọai quốc , tiếp theo là Malaysia ( 10% ), Hong Kong ( 8/9 % ) , Inđônêxia ( 8.0%) và Hoa Kỳ (4%). .Nền kinh tế Ấn Độ đang tăng trưởng mau lẹ, đặc biệt ỏ lảnh vực cao kỷ, đang trở thành một nguồn nới rộng đầu tư ngọai quốc cho Singapore. Hoa Kỳ không viện trợ song phương cho Singapore , nhưng tuồng như Hoa kỳ tỏ vẽ muốn cải thiện thương mãi song phương và đã ký kết Thỏa Hiệp Tự do Thương mãi Hoa Kỳ - Singapore. Thuế tổ hợp Singapore là 17% .
( Irvine, Nam Ca Li, Hoa Kỳ ngày 16 tháng 8 năm 2015 )