3/5/2015
Tiếp theo phần I ngày 2/4/2015
IV- Thuốc Siêu Kháng sinh - Super Antibiotic
Do Losee Ling, 57 tuổi , phó chủ tịch về Khảo cứu và Phát triễn - R&D hạng mới thành lập NoVoBiotic Pharmaceuticals ở Thành phố Cambridge , bang Massachusetts- Hoa Kỳ và Tanja Schneider 39 tuổi , nhà khảo cứu Viện đại học Bonn - Đức Quốc sáng kiến làm ra .Giáo sư Kim Lewis của Viện đại học Đông Bắc và là cố vấn cho NovoBiotic ước lượng sẽ cần hơn 30 năm người dùng, vi khuẩn mới phát triễn đối kháng teixobactin. Novotic , thiết lập năm 2003, nói rằng các thử nghiệm trên con người của thuốc đã xảy ra hơn một năm rồi . Lewis nói rằng có thể phải tốn 6 năm trời mới đem thuốc bán trên thị trường được, và thêm rằng công ty sẽ cần hàng trăm triệu đô la Mỹ, thì teixobactin mới sẳn sàng cho con người tiêu thụ .Tháng 12 năm 2014, một báo cáo của một uỷ nhiệm thủ tướng Vương Quốc Anh - UK David Cameron cảnh cáo là đến năm 2050 , các vi khuẩn đối kháng thuốc kháng sinh có thể giết chết 10 triệu người mỗi năm và tốn cho nền kinh tế thế giới lên đến 100 ngàn tỉ - trillion đô la Mỹ .
Dạng và chức năng:
Teixobactin là một thuốc kháng( trụ ) sinh có khả năng phá hủy vài dòng vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh, mỗi năm giết chừng 700 000 người trên thế giới. Đây có thể là một thuốc kháng sinh chánh mới mẽ , kể từ khi hảng Eli Lilly khám phá ra daptomycin vào thập niên 1980.
1- Véc tơ - vector: Phần lớn các thuốc kháng sinh tấn công protêin các tế bào vi khuẩn , thương hay đột biến . Còn teixobactin đánh vào các màng tế bào - cell walls và các cấu tạo lipid chậm tiến trào hơn và như thế ít phát triễn mức đối kháng hơn. Ling, Schneider và các bạn khoa học đồng nghiệp cách ly một tác nhân chống vi trùng, từ một mẩu rác rưới bang Maine- Hoa Kỳ Nhóm này đã mất 2 năm điều tra và cứu xét hơn 10 000 dòng vi khuẩn.
2- Thành công: trên một nghiên cứu xuất bản ngày 7 tháng giêng năm 2015, thuốc teixobactin đã chửa trị mọi chuột lây nhiểm các vi khuẩn cầu chùm ( tụ cầu ) staphylococci kháng thuốc kháng sinh, thường giết chết 90% chuột lây nhiễm. Teixobactin cũng tỏ ra hửu hiêu chống lại các dòng đối kháng bệnh ho lao - tuberculosis , trong số các bệnh lây nhiễm khác .
V- Làm nứt rạn mã số bệnh Alzheimer ?
Cách đây hơn 100 năm , bác sĩ Đức Alois Alzheimer đã giải phẩu sau khi chết bộ nảo điên lọan của một bệnh nhân sau khi bà chết. Bà này tên là Auguste Deter, lúc đó 51 tuổi, trí óc đầy lầm lẫn- mơ hồ và cử chỉ đầy ảo tưởng : bà ghen tuông chồng hết sảy và đôi khi bà hét to nghĩ rằng ai đó muốn giết bà ; bà trở nên hoang dại và không kiểm sóat nổi. 5 năm sau bà chết, khi xem xét những lát cắt mỏng bộ nảo bà ở kính hiển vi , ông lưu tâm đến bên phải cạnh vòng mê lộ các tế bào thần kinh lành mạnh là những cụm - bó tương tự động vật chân tơ - barnacle like , những protêins cứng rắn , tên gọi là vết tan dạng tinh bột - amyloid plaques và rất nhiều sợi- fibers nới rộng ra đến cuối các tế bào thần kinh- những protêins khác tên gọi là tau , dày đặc thêm và rối tung. Vòng bộ nảo sai lạc này- các vết tan dạng tinh bột và các tau rối tung - trở thành hai đặc trưng cho một bệnh mang tên ông : bệnh mất trí nhớ, óc điên lọan Alzheimer .
Từ lâu các nhà khoa học đã phấn dấu tìm hiểu cách nào những protêin này họat động. Những tiến triễn mới đây về kỷ thuật và một lọai các khám phá đáng ngạc nhiên hai năm qua đã cung cấp những đầu mối về cách nào bệnh Alzheimer đã tàn phá nảo bộ. Hơn 5 triệu dân Hoa Kỳ mắc bệnh Alzheimer, làm chết mỗi năm 500 000 người. Thế giới, năm 2050 , uớc lượng 100 triệu người mắc bệnh Alzheimer và ở Hoa Kỳ sẽ là 16 triệu. Năm 2012, chánh quyền Obama đã ghi 156 triệu đô la trong 2 năm tài trợ khảo cứu, hy vọng chiến thắng Alzheimer vào năm 2025. Mới đây, các nhà khoa học đã vẽ đuợc bản đồ các lối đi của phát triễn bệnh. Những dụng cụ uy vũ, cách nhìn thấy mới mẽ độ phân giải cao có thể nhìn sâu bên trong nảo sống , giúp cho các nhà khoa học theo dấu một thác đổ sự cố dẫn tới bệnh Alzheimer. Các khám phá di truyền đã soi sáng những cơ chế sinh học nằm sâu duới bệnh. Mở toang cửa cách nào những mảnh nhỏ DNA phản bội này họat động sẽ cung cấp thêm đầu mối cho cách nào chận đứng ngay bệnh.
Một thác đổ chết người
Nhưng bệnh Alzheimer không tiết lộ bí mật mình dễ dàng đâu ! Ngày nay chúng ta biết vết tan là những cụm các mảnh protêin tên gọi là các peptides bê ta amyloid ( dạng tinh bột bê ta ). Chúng tụ tập bên ngòai tế bào thần kinh ở nảo bộ và làm gián đọan hệ thống ra dấu hiệu giữa các nơ ron, chận đứng chúng không cho chuyễn tiếp thông điệp. Truyền thông tan vỡ này giải thích tại sao các bệnh nhân Alzheimer lại đau khổ mất dần trí nhớ, lầm lẫn và thêm khó khăn làm các nhiệm vụ hằng ngày. Ngược lại, protêin tau làm tai hại bên trong các tế bào thần kinh gây ra tích tụ những dải như sợi mì - spaghetti like bóp nghẹt các nơ ron. Điều này làm gián đọan các dòng chảy các tín hiệu điện, du hành xuyên qua các tế bào dây thần kinh; cuối cùng làm chúng héo tàn và chết. Xây đắp các trầm tích tau xoắn cong cũng phá tan chung quanh các tế bào thần kinh và có khi phế thải đi những mô tế bào hàng lọat rộng lớn. Các cấu tạo khẩn thiết khác, những axon và dendrit gọi chung là nơ rít- neurit nhô ra từ các tế bào dây thần kinh và gửi đi và nhận vào các thông điệp tùy thuộc mạng lưới chuyên chở thần kinh này . Khi mạng lưới này bị các rối rắm tau làm gián đọan, nó có thể khởi động một phản ứng dây chuyền tai hại ở trí nhớ và mạch vòng nhận thức - cognitive ciruitry của bộ nảo, gia tốc hư hỏng trí tuệ .
Amyloids và tau đều là những protêin xảy ra tự nhiên. Thân thể sản xuất các vết tan amyloid, rồi đào thải chúng theo một tiến trình sinh học bình thường hủy hoại và tái sinh . Trong vài ca, amyloids có thể có một chức năng bảo vệ; những nghiên cứu mới đây cho biết là chúng có thể hành động như là những lính bảo vệ phân tử, làm câm nín các phản ứng tự miễn nhiễm của thân thể. Chúng cũng quét hết những tế bào phiêu bạt, gây ra viêm sưng sau một tổn thương. Nhưng vì những lý do chúng ta chưa biết , khi Alzheimer phát triễn, protêin này phân chia không đúng cách và tạo ra một dạng gọi là bêta amyloid, độc hại cho các nơ ron trong nảo. Khi việc này xảy ra, nảo tạo nên các vết tan, tích tụ quanh các nơ ron, rồi thì làm gián đọan hệ thống tín hiệu giữa các tế bào nảo.
Còn về phần mình, protêin tau rất khẩn thiết cho tòan vẹn cấo tạo của nơron, hành động như thể các rầm- xà nhà ổn định các tiếp hợp - synapses, những cây cầu giúp các thôi thúc điện chạy xuyên qua giữa các nơ ron. Nhưng ở điểm nào đó, tau cũng lạc đường và các dây thần kinh mất đi các hổ trợ cấu tạo mình, làm các tế bào sụp đổ và chết. Thật tế, các mối rối tau có thể chính là thủ phạm bên sau nảo mất trí nhớ, vì lẽ chúng trực tiếp liên kết với thiếu hụt nhận thức. Ai đó có thể có các vết tan amyloid và chức năng vẫn bình thường, nhưng một khi họ có các mối rối tau tangles, điên lọan- dementia đã rỏ ràng. Tanzi, cũng là giám đốc Đơn Vị Khảo cứu về Di Truyền và Lảo Hóa ở Tổng Y Viện Massachusetts, nói: Mối rối thúc đẩy điên lọan và thóai hóa dây thần kinh. Nếu bạn không có các mối rối, bạn sẽ không mắc bệnh. Một khi các mối rối thành hình, chúng lan tràn mau như lữa cháy và cứ tiếp tục lan tràn. Nhưng lỗ hổng lớn nhất trong hiểu biết chúng ta là cách nào các amyloid thúc đẩy làm ra các mối rối ? Các nhà khoa học đang bắt đầu tìm ra vài manh mối, nhờ kỷ thuật làm dấu tay di truyền và những kỷ thuật giúp các nhà khảo cứu quan sát các vết tan amyloid thành hình.
Chăm chú nhìn bên trong nảo
Mãi gần đây, cách duy nhất nhìn chăm chú vào các vết tan con người và phân tích bộ nảo của người chết Alzheimer, một thách thức một nhà khoa học sánh ngang với cái nhìn xe bị tai nạn và cố gắng suy ra nguyên nhân tai nạn. Chúng ta không thể lột ra sọ ai đó còn sống để quan sát cái gì đã xảy ra trong thời gian thực sự hay lấy mẩu các lát sọ để dò kiếm dưới một kính hiển vi. Các kỷ thuật truyền thống tạo hình, như MRI hay positron emission tomography , PET - chụp cắt lớp bằng tia X phát đi positron, không thích hợp. Chúng chỉ tốt đẹp khi cung cấp ảnh chụp nhanh nhỏ một millimét và có thể cho chúng ta biết về họat động bộ nảo, nhưng chúng không chụp bắt được hình thành các vết tan hay mối rối con người chỉ có 100 micron hay 1/10 millimét, hai lần bề dày một sợi râu mèo - cat ‘s whisker . Tuy nhiên, vài năm qua, những dụng cụ mới trông nhìn uy vũ, song song với các hóa chất theo dấu mới mẽ - novel tracer chemicals, có thể soi sáng ngay cả những mảnh bé tí xíu mô nảo, đã cống hiến cho các nhà khoa học môt thoaáng nhìn cách họat động bên trong nảo bọ con người .
Năm 2012, FDA chấp thuận Amyvid , một thuốc nhuộm phóng xạ tự dính chặc vào các protêins amyloid, cho nên chúng có thể chiếu sáng ở máy rà dò PET. Các theo dấu phóng xạ tương tự cũng xuất hiện trên đườhg dây trực tuyến-on line. Sử dụng hóa chất như thế phối hợp cùng các dụng cụ làm hình ảnh mới, tỉ như kính hiển vi đa photon và cùng tiêu điểm - multi photon confocal microscope đã giúp cho các nhà khảo cứu thám hiểm thế giới nhỏ nhoi của nơ ron và quan sát các tế bào nảo đang họat động với mức độ chính xác hơn nhiều. Kính hiển vi này đủ sức lực dò ra các vật thể nhỏ chỉ bằng một micron duy nhất ( 1/10 millimét ) và các vết tan tiết diện chừng 10 microns .
Theo dấu DNA phản bội
Các nhà khoa học đã trải qua 30 năm săn bắt các genes liên kết với dạng di truyền của bệnh. 3 năm qua, họ đã khám phá ra một tá chúng. Điểm chấm những mảnh nhỏ DNA đột biến bên dưới bệnh có thể nay mai dẫn tới những thử nghiệm di truyền cho biết là ai đó có bị nhiều hiểm nguy cao hơn không , cho nên họ cần làm những bước tiến phòng ngừa . Họ cũng cho biết cách nào bệnh tiến triễn. “Mỗi khi bạn tìm thấy một gen, bạn có thêm một dụng cụ mới để hành động và nó cho bạn biết những cái nhìn sâu đậm bên trong những cơ chế của bệnh; theo lời Gerard Schlennberg một nhà bệnh học Viện đại học Pennsylvannia , chủ tịch Hiệp hội Di truyền bệnh Alzheimer, một cố gắng hợp tác của các nhà điều nghiên từ 44 viện đại học và trung tâm khảo cứu. Các nhà khảo cứu Viện đã xác định ra 4 genes mới thông thường hơn trên ai mắc bệnh Alzheimer. Các nhóm khảo cứu khác ở Hoa Kỳ và Âu Châu đã đưa thêm số bệnh nhân lên đến 54 000 người, và xác nhận khám phá 4 genes này. Những gen mới vừa khám phá , đóng một vai trò trong 3 chứa năng thân thể hòan tòan khác nhau, gồm cả các hệ thống kiểm sóat viêm sưng và cholesterol và điều hòa cách nào tế bào nảo làm sạch các protêins độc hại. Những khám phá mới này xây đắp trên các khám phá trước về những gen liên kết đến bệnh Alzheimer như APOE - 4 , một dấu chuẩn mạnh mẽ cho bệnh Alzheimer xuất hiện chậm, và chừng 40 % người chẩn đóan có biến đổi DNA này .
Mùa thu năm 2013, Hiệp hội Quốc tế xác nhận thêm 11 genes nữa tăng gia hiểm nguy phát triễn bệnh Alzheimer, đem tổng số gen liên quan đến dạng bệnh xuất hiện chậm lên 21 genes. Vài genes mới điểm chấm này, điều hòa cách nào các tế bào dây thần kinh nói chuyện cùng nhau trong các trung tâm trí nhớ bộ nảo tỉ như bộ phận cá ngựa - hippocampus; các genes khác liên hệ tới phản ứng miễn nhiễm và viêm sưng. Phản ứng quá tích cực của hệ thống miễn nhiễm chúng ta lượm sạch các mảnh vỡ tế bào các vết tan ương ngạnh và các mối rối để lại , đóng một vai trò thiết yếu làm bệnh lan tràn . Tanzi nói: Chúng tôi bắt đầu kết nối các chấm - dot giữa các genes với những triệu chứng lâm sàng. Các vết tan và các mối rối giúp cho tiến trình tiếp diễn và các tế bào dây thần kinh bắt đầu chết. Nhưng không tiến tới, trước khi viêm sưng tung đá lên tiến trình khởi sự như lữa cháy rừng và đó là điều thúc đẩy điên lọan.
Kế họach tấn công
Năm 2013 một khám phá đáng ngạc nhiên có thể chứ một miếng trò con rối khẩn thiết cho việc phát triễn những phép chửa trị làm bệnh ngừng bước ở các con đường bệnh đang tiến tới. Năm 2008, khi các nhà khảo cứu Harvard tìm ra gen CD33 ở lưới vét genes của tòan thể hệ gan trên những gia đình mắc bệnh Alzheimer. Lúc đó, họ chưa xác định được chức năng của gen. Nhưng phân tích sau khi bệnh nhân đã chết, các mô bộ nảo trên các bệnh nhân bệnh tới chậm, các nhà khoa học nhận thấy là có quá nhiều gen CD33 ở các tế bào tên gọi là tế bào thần kinh đệm micrô - microglia, hệ thống miễn nhiễm phái đi để xua đuổi các kẻ ngọai xâm. Tuồng như có một liên hệ trực tiếp giữa sự hiện diện của CD33 và tổng số các vết tan amyloid phá hại.
Bình thường, các tế bào microglia này rất ích lợi. Chúng làm sạch các mảnh vỡ phân tử tỉ như các tế bào dây thần kinh chết hay đang chết và các trầm tích amyoid dính liền, có cơ làm hư chức năng nảo. Nhưng các tế bào microglia rất là cảnh giác và trở qua hành động khi có dấu hiệu lôi thôi đầu tiên. Cách nào đó, khi các tế bào microglia được vỏ trang bằng CD33 phản bội, chúng tăng tốc tung ra một sứ mệnh bừa bải tìm kiếm và tiêu diệt đánh phá đốt cháy các nơ ron lành mạnh, khi quá nhiều amyloids bắt đầu chất đống. Tanzi tin rằng tìm ra một hợp chất chận đứng được gen vô lại này và tắt nó đi, sẽ ngưng được tai hại các amyoids làm ra .
Mùa thu năm 2013, nhóm Tanzi làm ra cái được hoan hô là “ khuôn mẩu đổi thay- paradigm shifting” khám phá di truyền học , giúp ổn định tranh cải về ai đã kích động Alzheimer phát triễn chậm : amyloids hay protêins tau. Sau khi làm thí nghiệm với một dòng chuột mới phát triễn làm thay thế tốt đẹp cho Alzheimer, họ tìm ra gen ADAM10 làm ra một enzym têngọi là alpha scretaz , ngăn ngừa hình thành beta amyloid. Nhưng dạng đột biến của ADAM10 lại hành động hòan tòan đối nghịch: nó làm cùn hành động của enzym, thành quả là sản xuất thêm các protêin độc hại. Tanzi nói: “ ai có gen đột biến thường mắc bệnh Alzheimer khỏang tuổi 70, vì lẽ amyloids xây đắp do họat động giảm bớt của enzyme bảo vệ. Nay các nhà khảo cứu đang thử nghiệm bộ điều biến - modulators của các enzym này ở la bô, cố nhìn xem là chúng có thể nào sửa chửa khiếm khuyết này và ngăn ngừa sản xuất vết tan không .
Thế nhưng không phải chỉ có các diễn viên xấu xa là được chú ý đến. Các nhà khảo cứu còn để lộ ra những mảnh nhỏ cắt ra của DNA có vẽ như là đã làm ngưng phảt triễn bệnh nảo, ngay cả ở những ai gen làm họ ở hiểm nguy cao hơn. Các nhà khoa học băng đảo - icelandic nghiên cứu DNA của 1759 công dân họ đã đào lên một gene phiêu bạt - chỉ 1 trong số 10 000 người nguồn gốc Âu Châu là đem theo đột biến này - làm chậm bớt sản xuất của vết tan trong nảo. Họ tìm thấy là ai tuổi 85 hay già hơn và không mắc bệnh Alzeimer - hay bị bớt đi bén nhọn trí óc - đều chứa gene đột biến 4 đến 5 lần nhiều hơn thường lệ cho ai mắc bệnh. Điều các nhà khoa học tìm thấy đặc biệt đáng sửng sốt là nó vẫn còn đúng ngay khi các cụ trên 80 tuổi ; có 2 sao chép của gene APOE-4 hiện diện trên 80% các cụ 80 tuổi mắc bệnh Alzheimer . Chừng 25 người tuổi hơn 85 có 2 sao chép APOE-4 , nhưng không một ai mắc bệnh cả.
Hy vọng ở chiến tuyến chửa trị
Tiến bộ về giải mã di truyền học của Alzheimer, không những sục sạo ra các biến đổi DNA thông thường tiên đóan hiểm nguy đáng tin cậy hơn, chúng cũng là đầu mối cho những mục tiêu sinh học tiềm thế cho các thuốc hầu ngăn ngừa, chận đứng hay ngay cả đảo ngược bệnh. Đến nay ,đa số chửa trị hứa hẹn đều rơi vào bên đường lề. Các hảng chế tạo thuốc đã mất hàng tỉ đô la tìm phép chửa trị Alzheimer có vẽ tốt đẹp khi mới khảo cứu, nhưng lại thất bại ở những thử nghiệm lâm sàng to lớn hơn, khiến một bá cáo định danh lảnh vực này là “ một mồ chôn hy vọng”. Những chửa trị này thử nghiệm trên dân gian đã có triệu chứng bệnh . Nghiên cứu gần đây trên một dạng Alzheimer sớm trổi dậy, dò ra hiện diện của protêins amyloids vô lại, hai chục năm trước khi triệu chứng phát khởi, gợi ý rằng chúng ta đã can thiệp qúa trễ tràng, khi tai hại không còn cứu chửa được nữa.
Vài năm qua, hai nghiên cứu được tung lên, cố tìm xem thử những thuốc làm co lại các vết tan có làm ngưng được bệnh khởi đầu không trước khi triệu chứng xuất hiện trên ai đó di truyền dễ thiên về phát triễn Alzheimer . Một nghiên cứu tên gọi là DIAN ( Mạng lưới Di truyền Chủ trì Alzheimer - Dominantly Inherit Alzheimer ‘s Network ) liên quan đến 260 người ở Hoa Kỳ , Anh Quốc , Đức và Úc Châu. Nghiên cứu thứ hai là “ Sáng kiến Ngăn ngừa Alzheimer - Alzheimer ‘s Prevention Initiative” gồm 300 thành viên của một gia đình nới rộng chừng 5000 người ở thị trấn Medelin xứ Colombia và các làng miền núi xung quanh. Những kẻ tham dự DIAN được cấp một trong hai lọai thuốc tên là gantenerumab và solanezumab . Cả hai là kháng thể - antibodies làm dính các protêins amyloid và giúp lấy đi các protêins độc hại từ nảo, trước khi chúng có cơ hội trở thành các vết tan. Còn ở nghiên cứu các thành viên gia đình Colombian đã phát khởi sớm Alzheimer , các nhà khoa học thử nghiệm một thuốc khác tên là crenezumab, hành động tương tự các thuốc khác. Nếu các phép chửa trị này, cách nào đó, làm ngưng hay làm chậm phát triễn mất trí nhớ, lầm lẫn - mơ hồ hay thành hình vết tan, chúng có cơ làm chậm lại tiến bộ của bệnh.
Thế còn dân gian không có lịch sử gia đình mạnh mẽ về bệnh thì sao ? Năm ngòai 2014, hai thử nghiệm lâm sàng dài hạn khởi sự thử nghiệm chửa trị có thể hoặc ngăn ngừa hay làm chậm Alzheimer trên các thiện nguyện lành mạnh không có di truyền bị nguy hiểm phát triễn sớm Alzheimer. Một nghiên cứu tên là A4 ( chửa trị chống amyloid ở Alzheimer không triệu chứng) sẽ thử solenazumab trên 1000 nhận thức bình thường tuổi từ 65 đến 85 , đã có những mức cao bất thường protêin amyloid. Các kẻ tham dự sẽ được lựa chọn căn cứ trên các thành quả của rà dò nảo PET ,hầu dò tim hiện diện của protêin bị hư hỏng. Thử nghiệm khác là nghiên cứu TOMORROW sẽ cung cấp một thuốc FDA chấp thuận cho tiểu đường là pioglitazone , cho các thiện nguyện lành mạnh để xem thử nó có làm chậm nhưng triêu chứng đầu tiên của hư hỏng nhận thức . Thử nghiệm lâm sàng sẽ gồm 5000 tham dự chứa hai genes đăc thù của Alzheimer : APIOE và TOMM40 . Một nghiên cứu quan sát các nhà khoa học Đức làm ra năm 2014, gợi ý rằng sử dụng dài hạn thuốc này có thể bảo vệ chống lại điên lọan. Dùng thông tin khuyến cáo của một căn cứ dữ liệu Đức, họ nhìn vào 145 000 ngườii trưởng thành- tuổi 60 hay cao - hơn không bị điên loạn. Sau 6 năm theo dõi, họ tìm thấy là 10% đámngười này, chừng 14 000 người phát triễn điên lọan, nhưng hiểm nguy lại ít hơn là những ai đã dùng thuốc trị tiểu đường. Theo Keith Fargo, giám đốc các chương trình khoa học của Hiệp Hội Alzheimer, “ ai bị tiểu đường có thể tăng hiểm nguy mắc Alzheimer. Thuốc có thể làm giảm bớt những lạ lùng kiểm sóat chuyễn hóa glucose và vì lẽ nó có một ảnhhưởng cho kháng viêm sưng. Rất nhiều nhà khảo cứu bây giờ tin rằng viêm sưng đóng một vai trò quan trọng trong bệnh Alzheimer.”
…
( Chiếu theo bà Linda Marsa ,biên tập viên bán nguyệt san Khám Phá - Discover )
( Irvine, Nam Ca Li- Hoa Kỳ , ngày 26 tháng 3 năm 2015 )