12/11/2015
Có lẽ nên cập nhật hiểu biết hơn về một số nước Mỹ Châu La tinh:
Nước Pê Ru Nam Mỹ La tinh đối cực nhiều vùng Việt Nam, tổng thống có lúc nguồn gốc Á Châu
G S Tôn Thất Trình
Dân Việt biết nhiều hơn ở Nam Mỹ Châu- Châu Mỹ La tinh về Brasil ,Mễ Tây Cơ - Mexico tuy rằng thời Pháp thuộc đã dạy ở địa lý là Peru- Pê Ru giàu có , “giàu sụ như một dân Pê Ru”. Nhưng không biết Pê Ru, diện tích 1 285 216 km2 gần 4 lần hơn Việt Nam , dân số năm 2011 đã lên đến 29 248 493 người, chưa đến ⅓ dân số Việt Nam ,đứng hàng thứ 5 Châu Mỹ La Tinh, có nhiều tộc dân ,địa hình đa dạng có 84 hệ thống sinh thái - ecosystems trong số 117 hệ thống sinh thái thê giới xếp lọai, chứa nhiều động vật và thực vật di dạng và đặc biệt trong lịch sử mới đây, năm 1990, có bầu một tổng thống gốc Nhật là Alberto Fujimori, làm nhiều thay đổi chánh quyền cho xứ Pê Ru suốt thập niên 1990, nhưng đã phải từ chức năm 2000 vì nhiều xì căng đan chánh trị .
Vị trí
Tọa độ Pê Ru là 100 00 vĩ tuyến Nam và 760 00 kinh tuyến Tây. Nhiều phần miền Bắc và miền Nam Pê Ru là đối cực - antipodal với Đông Nam Á . Phía Bắc gần biên giới với xứ Ecuador đối ngược với nước Mã Lai Á gồm luôn cả bờ biển Đông và Penang và thành phần kế cận Bán đảo Kra - Thái Lan ( sắp đào kinh Kra ngang qua bán đảo, có cơ thay đổi tình hình Biển Tây Việt Nam ? ). Trong khi nhiều đảo Riau Islands của Inđônêxia lại đối cực với miền Bắc Amazon Pê Ru. Miền Nam Việt Nam mãi cho đến phía Bắc TP Huế đối cực với miền Nam Amazon Pê Ru và Sài Gòn gần đối cực với thị trấn Atalaya xứ Pê Ru và thị trấn Cuzco đối cực gần thị trấn Pleiku , Việt Nam. Ngòai phần phía tây nhất, Căm Bốt là đối cực với dãy núi Andes và bờ biển kể cả thủ đô Lima có thị trấn Ayacucho không xa mấy Stung Treng và Huancayo không xa mấy thủ đô Nam Vang - Phnom Penh. Đền đài nổi danh Căm Bốt Angkor Wat cũng trực diện đối cực với Thành phố Pê Ru Chincha Alta. Góc phía Đông Thái Lan tương ứng cùng bờ biển Pê Ru quanh Nazca, và miền Nam Lào đối cực với vùng bờ biển ngay phía Nam. Mũi Nam đảo Hải Nam của Trung Quốc chồng lấn cùng điểm cuối Nam Pê Ru.
Tổng cọng bề dài biên giới chung với các nước Châu Mỹ La tinh là 7461km. Chung với Bolivia 1075km, với Brasil là 2995km, với Chile - Chí Lợi 171km, với Colombia 1800km, với Ecuador là 1420km . Bờ biển dài 2414km . Điểm cực Bắc là Sông Puturmayo ở quận Putumayo District , tỉnh Maynas , Vùng Loreto. Điểm cực Nam là Pacific Shore ở quận Tacna, tỉnh Tacna , vùng Tacna . Điểm cực Tây là Punta Parin~as , ở quận La Brea , tỉnh Talara , Vùng Piura . Điểm cực Đông là Cửa sông Health River ở quận Tambopata , tỉnh Tambopata , Vùng Madre de Dios. Dỉnh cao nhất là Nevado Huascaran cao 6 768m ( gấp đôi đỉnh Phăng Xi Păng ) , nơi thấp nhất là - 34m ( - là dưới mực nước biển ) ở Trũng Bayovar Depression . Sông dài nhất là Amazon. Hồ lớn nhất là Lake Titicaca ,chung với Bolivia là hồ thông thương , đi lại dễ dàng nhất thế giới.
Đôi chút lịch sữ
Peru có một lịch sử lâu đời văn hóa Norte Chico và Đế Quốc Da Đỏ Inca . Dân Âu Châu mãi đến năm 1531 và khi dân Tây Ban Nha ( I Pha Nho ) tiến đến lảnh thổ và khám phá ra văn hóa Inca. Vào lúc đó, Đế Quốc Inca tập trung ở Cuzco ngày nay và theo Bộ Ngọai Giao Hoa Kỳ Đế Quốc này trải dài từ miền Bắc xứ Ecuador đến miền Trung xứ Chí Lợi - Chile . Đầu thập niên 1530 tướng Francisco Pizarro khởi đầu tìm kiếm vùng để làm giàu và năm 1533 chiếm cứ Cuzco. Năm 1535 Pizzarro thiết lập Lima và năm 1542 , đặt ra một Phó Vương - Viceroy ở đây giúp cho Lima kiểm sóat mọi thuộc địa Tây Ban Nha vùng này . Nhắc lại là năm 1623 , 60 năm sau thành lập thủ đô Lima- Pê Ru , nhờ sự vận động của hòang hậu Ngọc Vạn , nguyên là công nương con Chúa Sải Nguyễn Phước Nguyên mướn đất (thật sự là vô chủ) lập đồn thâu thuế bảo vệ cho dân Việt vào lập nghiệp ba bốn chục năm trước (1580 ?) tại Đồng Bằng Sông Cửu Long ở Prey Nokor và Kras Krobei. Preykor đọc trại là Tài Gòn - Sài Côn và Kas Krobei là Bến Nghé Quận 1 Sài Gòn.
Tây Ban Nha kiểm sóat Peru mãi cho đến đầu thập niên 1800 thì Jose de San Martin và Simon Bolivar khởi sự đẩy mạnh nền độc lập. Ngày 28 tháng 7 năm 1821, San Martin tuyên bố Peru độc lập, nhưng đến năm 1824 Peru chỉ mới hòan tất độc lập bán phần mà thôi . Tây Ban Nha công nhận nền độc lập Peru vào năm 1879 . Tiếp theo độc lập, tranh chấp nhiều lảnh thổ xảy ra giữa Peru và các nước lân bang. Những xung đột này đưa tới Cuộc Chiến Tranh Thái Bình Dương - War of the Pacific, từ năm 1879 đến năm 1883, cũng như nhiều cuộc chạm súng đầu thập niên 1900. Năm 1929, Peru và Chile sọan thảo một thỏa hiệp phân định rỏ ranh giới hai nước, tuy nhiên không thi hành hòan tòan, mãi cho đến năm 1999 và biên cương biễn hai nước nay vẫn còn tranh chấp . Thiết tưởng cũng nên nhắc lại là dân Âu Châu khởi sự tiếp xúc ( qua các linh mục Dòng Tên ) Tây Nguyên năm 1815 và năm 1883 Pháp đã hoàn tất đánh chiếm tòan cõi Việt Nam , sau khi phá tan đồn Kỳ Hòa, tổng đốc Nguyễn Tri Phương chống trả yếu đuối, chiếm giữ Sài Gòn ngày 18 tháng 2 năm 1859 .
Bắt đầu ở thập niên 1960, bất ổn xã hội đem tới một nền cai trị quân sự, kéo dài từ 1968 đến 1980 . Cai trị quân sự chấm dứt, khi Tướng Juan Velasco Alvarado được Tướng Francisco Morales Bermudez thay thế năm 1975. Bermudez họat động chuyễn Peru vào nền Dân chủ - democracy , bằng cách làm ra một bản hiến pháp mới và tổ chức các cuộc bầu cử. Lúc đó Tổng thống Belaunde Terry lại đắc cử ( ông đã bị lật đổ năm 1968). Tuy trở lui lại dân chủ , Peru đau khổ bất ổn nặng nề vào thập niên 1980 vì các vấn đề kinh tế. Từ 1982 đến 1983, EL Nino gây ra lụt lội, hạn hán và phá tan ngành đánh cá. Thêm vào đó, hai nhóm khủng bố Sendero Luminoso và Tupac Amaru Revolutionary Movement trổi dậy, gây ra hổn độn gần khắp cả nước. Năm 1985, Alan Garcia Perez đắc cử tổng thống, nhưng xử lý kinh tế tệ hại tiếp theo, càng phá hại thêm nền kinh tế Peru từ năm 1988 đến năm 1990.
Năm 1990, Alberto Fujimori đắc cử tổng thống và như đã nói trên, ông thay đổi lớn trong chánh phủ suốt thập niên 1990. Bất ổn tiếp diễn và năm 2000 Fujimori từ chức sau nhiều xi căng đan chánh trị. Năm 2001, Alejandro Toledo nhận chức tổng thống và cố đưa Peru về lại dân chủ. Năm 2006, Alan Garcia Perez một lần nữa, trở thành tổng thống Peru và từ đó nền kinh tế và ổn định trở lại Peru .
Khí hậu các vùng địa hình Peru
Phối hợp vĩ tuyến nhiệt đới, các dãy núi cao, địa hình biến đổi đa dạng, và hai dòng hải lưu ( Humboldt và EL Nin~o ) cống hiến Peru một lọat khí hậu đa dạng . Về địa hình vùng bờ biển - costa là đồng bằng bờ biển Tây , vùng núi non - sierra ở trung tâm là dãy Andes cao và gồ ghề , vùng rừng rú - selva là các rừng rậm đất thấp của Lưu Vực Amazon . Peru là một khí hậu nhiệt đới - tropical có hai mùa ẩm ướt và khô hạn.
Vùng trũng lòng chảo Amazon hay Vùng Amazon thấp
Các phần phía Đông Peru gồm Trũng lòng chảo Amazon hay Selva baja. một vùng phía Bắc lớn hơn phía Nam nhiều . Chiếm gần 60% lảnh thổ quốc gia Peru, gồm Amazon , Mara~non , các sông Huallaga và Ucayali Rivers . Đây là một rừng nhiệt đới rộng lớn với vô số sông , suối . Diện tích 700 000 km2, gần 60% tổng diện tích đất nước, giúp cho Pertu chứa một rừng nhiệt đới rộng đứng hàng thứ tư thế giới, sau Brasil, Congo - Kinsasha- Leopoldville, và Inđônêxia .
Các rặng núi Andes
Dãy núi Anđes chứa nhiều lọai tiểu khí hậu đa dạng nhất Peru. Bán khô hạn ở các thung lũng và ẩm uớt trên các độ cao lớn và về phía các sườn Đông. Lượng mưa biến đổi từ 200 đến 1500mm hàng năm. Mùa mưa bắt đầu tháng 10 và chấm dứt tháng 4. Các tháng mưa nhiều nhất là từ tháng 1 đến tháng 3, đôi khi làm cản trở du hành. Các sường núi phía Tây rất khô hạn đến bánkhô hạn và mưa chỉ rơi xuống giữa tháng 1 và tháng 3. Trên 2500m ( 8202 bộ Anh ) nhiệt độ thay đổi ban đêm giữa 5 và 150 C ( 41- 59 0 F ) và ban ngày 18-250C ( 64.4- 77.00 F ) . Từ 2500 đến 3500 m ( 8 202 - 11483 bộ ), nhiệt độ biến đổi ban đêm là 0- 120C ( 32- 53.60F ) và ban ngày là 15-250C ( 59-77 0F ). Trên cao hơn nữa, từ 3500 đến 4500m ( 11 483- 14764 bộ ) tại vùng sinh thái Puna , nhiệt độ biến đổi từ-10 đến 80C ( 14.0 - 46.40 F ) ban đêm và 150 C( 590F ) ban ngày. Các vùng cực Bắc của dãy Andes, quanh các vùng Cajamarca và Piura có các tiểu khí hậu Páramo.
Bờ Biển
Bờ biển Peru là một vùng khí hậu vi tiểu - microclimate. Bị ảnh hưởng của Dòng Hải lưu Humboldt, Lúc lắc Nam - Southern Oscillation của El Nin~o, vĩ tuyến nhiệt đới và rặng núi Andes. Bờ biển miền Trung và miền Nam gồm phần lớn là các khí hậu sa mạc bán nhiệt đới gồm các bờ biển cát hay đầy đá và những thung lũng cắt bên trong núi. Nhiều ngày trời đầy mây phủ và có khi đầy mù sương mùa đông và trời nắng trong chỉ hơi bụi mù mùa hè, mưa chỉ là những giọt nhỏ nhẹ hay vừa vừa, tên địa phương là garúa . Nhiệt độ ít khi dưới 120C ( 53,60F ) hay trên 290C ( 84 0F ). Ngọai lệ là bờ biển miền Nam nơi các đêm đông có thể lạnh hơn ( 8-90C , hay 46.4- 48.2oF) . Mưa giọt nhỏ hày mù sương hay xảy ra ở bờ biển miền Trung và miền Nam vào các tháng mùa đông, nhưng ngay những ngày mùa hè cũng có vài ngày mù sương . Không bao giờ nên quên là dù ở đây có thể không ấm áp như ở các vĩ tuyến điển hình nhiệt đới, mặt trời sẽ đánh trúng và đốt cháy như thể bất cứ nơi nào nhiệt đới khác .
Bờ biển Bắc, trái lại, có một khí hậu kỳ lạ nhiệt đới - khô, thường mệnh danh là đồng cỏ nhiệt đới - tropical savanna. Vùng này ấm áp hơn nhiều, có các tháng hè không chịu đựng nổi, nơi mưa cũng hay rơi xuống . Vùng này khác bờ biển Nam nhờ hiện diện các lùm bụi, các rừng khô xích đạo, các rừng sác, các thung lũng nhiệt đới gần các sông tỉ như Chira và Tumbes và nổi tiếng về trời nắng trong sáng hầu như suốt năm. Nhiệt độ trung bình là 250C ( 770F ) .
Bờ biển miền Trung và Miền Nam
Như đã nói, hai miền này có khí hậu sa mạc phụ nhiệt đới, dù rằng vị trí là ở nhiệt đới. Dòng Hải lưu Humboldt là một nguyên nhân gây ra khác biệt khí hậu là 7- 80C, lạnh hơn các biển nhiệt đới bình thường ở 14- 190C, cho nên ngăn cản xuất hiện các nhiệt độ cao nhiệt đới. Thêm vào đó, nhờ cao độ rặng núi Andes, các mây nóng nực từ Amazone không đến được bờ biển, khí hậu lạnh lẻo hơn là ở các vĩ tuyến nhiệt đới tương tự. Điều này tạo ra rất nhiều ẩm độ và mù sương vào các tháng mùa đông. Hơn nữa, các núi Andes rất gần bờ biển , một thừa tố địa lý ngăn ngừa mây tích - cumulus và mây tích mưa - cumulo-nimbus xuất hiện. Cho nên một ảnh hưởng bóng râm được tạo ra, khiến cho vùng nhận rất ít mưa hàng năm. Lượng mưa trung bình chỉ là 5mm một năm gần biên giới Chí Lợi đến 200mm một năm ở bờ biển phía Bắc núi Andes hơn.
Bờ biển miền Trung gồm các vùng La Libertad, Ancash và Lima, có một khí hậu như mùa xuân hầu hết cả năm. Các ngày mù sương và nắng nôi trộn lẫn nhau quanh các đụn cát ẩm ướt gần như suốt năm .Đa số các tháng hè ( 2- 4 ), nhiệt độ dễ chịu từ 19 đến 210C ban đêm và 28-290C ban ngày. Mùa đông ( 8- 10 ) rất ẩm ướt nhiệt độ từ 12- 150C ban đêm và 17-180C ban ngày. Mùa xuân ( 11- 1 ) và mùa thu( 5- 7 ) có khí hậu thỏai mái từ 230C ban ngày xuống 170C ban đêm. Tiến sâu vào nội địa đến các thung lũng Yunga, khí hậu có khuynh hướng khô và ấm áp hơn, cao hơn thêm khỏang 3 0C bất cứ tháng nào.
Bờ biển miền Nam gồm các vùng Ica, Arequipa, Moquegua và Tacna có khí hậu khô và ấm áp hơn ban ngày cho tất cả 4 mùa, dù lạnh lẻo hơn vào mùa đông. Đây là các vùng nổi tiếng về các đụn cát và các sa mạc gây ấn tượng do khí hậu khô hơn và nóng nực hơn gây ra . Nhiệt độ vùng này có thể lên đến 360C ( 970F ) ở vùng Nazca trong khi các vùng nội địa có thể rơi xuống 8- 90C ( 46-480F ) vào các tháng đông. Ban ngày, nhiệt độ ít khi xuống dưới 22 hay 230 C mọi tháng trong năm. Điều này phù hợp ý kiến cho là vùng biển Nam có một khí hậu giống sa mạc hơn, dù rằng các biến thiên nhiệt độ cũng hiện diện như ở mọi vùng khác trong các vĩ tuyến nhiệt đới. Trời trong vắt cũng thường có ở các vùng sa mạc và dù ít thường lệ hơn, gần các ghềnh bờ biển , nơi nhiều lọai cá và động vật biển có vú sinh sống .
Bờ Biển Bắc
Bờ Biển Bắc là các vùng Lambayeque, Vùng Piura và Vùng Tumbes. Chúng có đặc điểm có khí hậu và địa lý khác biệt các bờ biển khác. Lái xe ba giờ đồng hồ sa mạc Sechura nằm về phía Bắc vùng Lambayeque và phía Nam Vùng Piura, thấy rỏ thay đổi khí hậu từ sa mạc phụ nhiệt đới thông thường tìm ra ở miền Nam đến các ảnh hưởng làm nhệt đới hóa rỏ rệt của khí hậu khô nhiệt đới hay đồng cỏ nhiệt đới. Các thí dụ dẫn chứng điểm này là các rừng khô nhiệt đới bắt đầu xuất hiện. Chúng là những lùm bụi, cây mộc gai góc, cây carrob, cây faique, cây huayacan, cây hualtaco, cây palo santo, cây ceibo và trên rừng sác biển. Đây cũng là vùng đa dạng sinh học, nơi đời sống hoang dã điển hình có thể quan sát được như cá sấu, bò sát, kỳ đà, trăn, Pava aliblanca, gấu, con lười - sloth ( bearh ) và nhiều con khác nữa .
Lý do khiến khí hậu thay đổi là sự có mặt của Dòng Nin~o ấm áp vào các tháng hè ( 12 đến 4), Hiện tượng El Nin~o có cơ xảy ra và các đám mây của Rừng Rậm Amazon bay qua , vì rặng núi mở toang và các vĩ tuyến thấp hơn của Dãy Andes . Đó là các nguyên do gây ra thay đổi khí hậu trên đường đi ngắn hai hay ba giờ, nhìn ra được giữa Vùng Lambayeque và tỉnh Sechura, nơi không phải là thay đổi địa lý, mà là tăng nhiệt độ khỏang 6 0C hay hơn nữa tùy theo tháng. Tại bờ biển trực tiếp ngòai khơi Vùng Sechura, nơi dòng Humboldt lạnh và dòng El Nin~o ấm áp gặp nhau, cách phía Nam xích đạo chừng 5-6 0 . Từ điểm này, nhiệt độ ấm áp rất thông thường và không có mùa đông thật sự. Nhiệt độ trung bình là từ 24.5 đến 270C. Trời trong, những thung lũng đẹp đẻ, các đất đai bị xói mòn với cát đo đỏ, ruộng lúa, các cây cọ dừa, đồng cỏ, rừng bụi, sông dày đặc, các bải biển xanh ngọc ấm đẹp, đất đai cam cam - vàng , cát trong hơn và mặt trời nóng cháy như ở một cao nguyên Phi Châu nơi không bao giờ có bóng râm cả .
Tưởng cũng nên nói qua là mô hình EL Nĩn~o nổi dậy từ việc ấm áp lên đáng kể của Thái Bình Dương xích đạo đem tới bằng những làn gió trao đổi yếu kém đi, bình thường đẩy nước mặt trời làm ấm qua phía Tây từ Châu Mỹ La tinh . Nước ấm trì hõan lại gây ra một phản ứng trên khí quyễn. Còn La Nin~a, ngược lại, xảy ra khi khi nước biển lạnh ngoài khơi Peru nổi lên trên mặt biển . La Nin~a có thể đem tới nhiều mưa to và hạn hán , nhưng theo mô hình đối ngược El Nin~o .Trên phương diện kinh tế toàn cầu El Nin~o khi thay đổi mô hình mưa rơi, có thể gây ra hạn hán trầm trong ở Á Châu và Úc Châu và mưa như trút ở Bắc Mỹ . Dân đánh cá Peru đã biết từ hàng thế kỷ thay đổi các đàn cá ở Thái Bình Dương khi nước biển ấm áp vào dịp Giáng Sinh - Christmas. Cho nên thay đổi có tên là Chúa Con- Infant Jesus . Ngày nay, các nhà thời tiết học gọi El Nino là Lúc Lắc Nam - Southern Oscillation. Hoa Kỳ chỉ cảm giác hòan tòan El Nin~o vào tháng hai nhưng đa số địa cầu đã cảm giác nó rồi. Chẳng hạn năm 2015 , tỉnh Đắc Lắc đã thấy mưa ít đi vì E Nin~o ( ? ), mực nước ở các ao hồ chỉ đến 67 % mức bình thường, khiến nhiều người lo ngại sẽ không đủ nước tưới mùa cà phê 2016 .
Mùa hè ( tháng 11 đến tháng 3 ) ẩm ướt hơn và rất nóng nực, nhiệt độ biến thiên từ 250C ban đêm đến 340C ban ngày, dù phía Bắc vùng Lambayeque có thể lên đến 40o C. Các mùa đông ( tháng 6 đến tháng 9 ) lạnh hơn ban đêm quanh 160C và ban ngày gần 27oC. Có những vùng bảo vệ như Tumbes và Piura đầy rừng canelo nhiệt đới và rừng khô nhiệt đới, tỉ như Caza de Coto và Cerros de Amotape , cả hai trải dài đến tận miền Nam xứ Ecuador. Các vùng đông Lambayeque cũng có các rừng khô nhiệt đới, tìm ra ở các tỉnh Chaparri và Chongoyape . Những rừng này có đặc điểm là nối lưu vực Amazon xuyên qua lối ngang qua Maran~on (một vùng cũng là rừng khô nhiệt đới ).Rừng sác- Mangroves chiếm 4 nơi đặc thù từ Sechura đến Tumbes . Ở những vùng này, cũng có rừng sác ở cuối các giải Sông Piura tại tỉnh Sechura và đây là những rừng sác cuối Nam nhất của Thái Bình Dương. Phía Bắc cuối các giải Sông Chira, Sông Tumbes và Sông Zarumilla cũng có rừng sác tiến xa ra tận biển .
Sẽ tiếp phần II, Phát triễn Peru , nhiều điểm có thể giúp Việt Nam tiến thêm
Phần II: Lịch sử kinh tế và Kinh tế Pêru ngày nay
Dẫn nhập
Pê Ru năm vào phần trung tâm Nam Mỹ Châu. Bắc giáp Ecuador và Colombia. Đông giáp Brasil- Ba Tây và Bolivia. Nam giáp Chí Lợi. Tây giáp Thái Bình Dương. Pê Ru là quốc gia lớn thứ ba ở Nam Mỹ sau Brasil và Argentina - Á Căn Đình, đứng hàng thứ 20 trên thế giới. Vị trí Pê Ru làm dễ dàng đi vào các thị trường Á Châu và Bắc Mỹ Châu. Diện tích Pê Ru là 1 285 216 km2 , chia làm 3 khu vực địa lý:
- Bờ Biển hay Costa là một dãi sa mạc hẹp dọc theo Thái Bình Dương dài 3080km và chỉ chiếm 10.7% lảnh thổ Pê Ru, nhưng là gia cư của khỏang 55% tổng số dân Pê Ru, ( chừng 17 triệu người, trên tổng số hơn 31 triệu năm 2014 ).
- Cao nguyên Pê Ru hay Sierra là vùng núi non Andes Mountains, chiếm 31.8% tổng diện tích và là nơi gia cư của khỏang 32% dân số đất nước ( chừng 9.9 triệu người) . Khu vục Sierra chiếm các mỏ trầm tích kim lọai chánh yếu xứ sở.
- Rừng Mưa - Rainforest Amazon hay Selva chiếm 57% lảnh thổ là khu vực địa lý lớn nhất , nhưng chỉ có 13% tổng số dân Pê Ru ( chừng 4 triệu người cư ngụ). Vùng rất giàu dầu lữa, khí dầu và tài nguyên rừng.
Ngân Hàng Thế giới xếp kinh tế Pê Ru vào nước có lợi tức trung bình - middle income . Đằng khác, Pê Ru có nhiều lảnh vực nhỏ hơn trầm tích giàu tài nguyên thiên nhiên, tiềm năng nông nghiệp to lớn, những vùng đánh cá tốt đẹp, một công nghệ tơ sợi cỗ truyền và những khả năng du lịch đồ sộ. Quốc tế xếp Pê Ru vào một quốc gia đa năng lớn - mega-diverse
Lịch sữ kinh tế Pê Ru
Lịch sử này căn cứ trên các điều kiện địa lý. Các vùng khí hậu khác nhau làm nông nghiệp mở rộng: vùng Andes giàu có tài nguyên thiên nhiên gíup khai thác hầm mỏ và vùng Thái Bình Dương nước biển đầy cá giúp phát triễn đánh cá thương mãi. Dân “da đỏ” Incas đã sử dụng các tài nguyên này một cách khôn ngoan và khéo léo. Incas xây đắp một đế quốc rộng lớn không cần phải có thị trường và tiền bạc mà là một hệ thống căn cứ trên thương mãi và dịch vụ. Các xứ sở dựa vào xử lý thông minh và lịch duyệt hiệu xuất canh nông và hầm mỏ, một hạ tầng cơ sở sáng tạo và nhân lực nuôi nấng no đủ. Incas đã sử dụng các xứ này theo đúng các điều kiện địa phương càng tốt càng hay. Tỉ như ở thắng cảnh du lịch Machu - Pichu ( xem hình kèm ) những sườn dốc núi Andes đã trở thành những bậc thang nền văn hóa Tiền Kha Luân Bố - Pre Columbian làm ra những “ thành phố- cities ” đáng ngạc nhiên gồm các khu lễ lạc, không gian sinh sống, họat động, chế tạo và nông nghiệp và nơi thương mãi. Pachacamac là phức tạp khảo cổ đáng kể thêm .
Khi dân Tây Ban Nha đến Pê Ru, thế giới xã hội và kinh tế đổi thay hẳn. Một lảnh vực kinh tế quan trọng lúc này là khai thác mỏ bạc - silver và các kim lọai đáng giá khác. Dân Tây Ban Nha du nhập tiền bạc vào dân gian địa phương ( xem hình các đồng tiền bằng bạc đính kèm ) .
Vào thế kỷ thứ 16 , lúc Tây Ban Nha xâm chiếm Mỹ Châu La Tinh, các cơ cấu xã hội và kinh tế Incas bị đào thải . Dân Tây Ban Nha chỉ chú trọng đến các tài nguyên thiên nhiên phong phú, khai thác Pê Ru làm ra giới qúi phái Tây Ban Nha và nước nhà giàu có, trong khi bó buộc dân địa phương làm lao động nô lệ.
Thế kỷ thứ 19, Pê Ru ghi dấu chiến tranh và tàn phá. Tuy nền độc lập Pê Ru đã được tuyên bố năm 1821, chiến cuộc vẫn tiếp diễn mãi cho đến khi dân xâm lăng Tây Ban Nha cuối cùng bị đánh bại năm 1924. Sau chiến tranh là hổn lọan chánh trị gồm chiến tranh với Colombia các năm 1828- 1829, với Chí Lợi từ 1836 đến 1839, và cuối cùng là Cuộc chiến Thái Bình Dương với Chí Lợi từ 1879 đến 1884, mà tất cả Pê Ru luôn luôn thua trận, tiếp tục làm kinh tế Pê Ru suy sụp. Sau chiến tranh, chánh phủ Pê Ru khởi sự một số cải cách kinh tế. Ngay khi Pê Ru phục hồi chậm rải, các giá cả xuất khẩu trụt thấp và Đại Khủng Hỏang- Great Depression thập niên 1930, đẩy Pê Ru thụt lùi một lần nữa. Từ cuối thập niên 1940, các hội đồng tướng lãnh cai trị Pê Ru . Sau 30 năm quản trị quân sự khiếm khuyết này, Pê Ru điêu tàn. Năm 1980, Pê Ru trở lại nền dân chủ. Nhưng lại khốn khổ vì các vấn đề kinh tế khắc nghiệt, lạm phát cao và nạn khủng bố.
Tổng thống Alberto Fujimori bầu lên năm 1990 đem lại một thập niên quay đầu kịch tính về kinh tế và nhiều tiến bộ đáng kể bằng chận đứng họat động du kích. Tuy nhiên, tổng thống tùy thuộc nhiều như đã nói trên, vào những biện pháp độc đóan tạo ra vào thập niên 1990, gây nhiều bất mãn chế độ ông, dẫn đến việc ông phải rời bỏ chánh quyền năm 2000. Năm 2001, Alejandro Toledo đắc cử tổng thống. Chánh phủ Toledo thành công cũng cố Pê Ru trở lại nền dân chủ . Toledo xử lý kinh tế vững mạnh và đề cao đầu tư ngọai quốc đưa tới một phồn thịnh kinh tế đáng kể, đặt nền tảng cho thành công Pê Ru ngày nay và lạm phát gần như biến mất .
Bầu cử tổng thống năm 2006, đưa Alan Garcia trở lại nắm chánh quyền. Tuy rằng nhiệm kỳ tổng thống lần thứ nhất của Alan Garcia từ năm1985 đến 1990 thật đáng chán nãn, Garcia đã làm ngạc nhiên kỳ này cho Pê Ru và Ngọai quốc. Garcia ôm đồm thị trường tự do giúp Pê Ru trở thành một nơi chóp bu cho đầu tư ngọai quốc ở Mỹ Châu La tinh. Dù cho khủng hỏang kinh tế và tài chánh, đầu tư ngoại quốc vẫn tăng gia, tình trạng kinh tế Pê Ru cải thiện, nợ công cộng giảm bớt và dự trữ ngọai tệ tăng cao . Sau Alan Garcia ( 2006- 2011 ), Ollanta Humala ,đắc cử năm 2011 và hiện tại vị, tiếp tục khuynh hướng kinh tế và giúp phát triễn những chánh sách cố kết- cohesion xã hội, mở rộng thêm các dự án đầu tư công cộng ...
Kinh tế Pê Ru ngày nay
Kinh tế Pê Ru ngày nay phản chiếu như các thế kỷ trước đa dạng địa lý . Tăng trưởng kinh tế tiếp tục do xuất khẩu kim lọai ( chánh yếu là vàng, đồng, kẻm ), tơ sợi, hóa chất , các sản phẩm nông nhiệp ( sản xuất vườn tượt và trái cây) , bánh dầu cá - fish meals , dịch vụ và các dự án năng lượng làm kinh tế Pê Ru dễ bị thăng trầm tổn thương trên gía cả thị trường thế giới. Nhưng tự do hóa hàng hóa và thị trường lao động, mở thêm thương mãi xuyên qua nhiều thỏa hiệp gần đây, đầu tư ngọai quốc trực tiếp và tối đa hóa lợi tức từ các tài nguyên thiên nhiên phong phú của mình, đã trả thêm lời với thị trường tăng lên, tăng trưởng tiêu thụ nội địa và phát huy lảnh vực tài chánh quốc gia.
Nhờ giá cả hàng hóa thế giới gia tăng , các chánh sách thị trường thuận lợi cho các nhà đầu tư và các chánh sách năng nổ thương mãi tự do, khiến cho Pê Ru nay là một trong những nước trên thế giới có nền kinh tế tăng mau lẹ nhất , cùng với một tỉ xuất tăng trưởng GDP tích cực, các tỉ xuất hối đóai ổn định và lạm phát thấp trong những năm mới đây. GDP Pê Ru đã tăng gấp ba trong 10 năm qua đúng theo thành quả của tăng trưởng kinh tế và mở rộng mau lẹ. Dù cho mỗi ngày càng có thêm nhiều dân Pê Ru hưởng thụ các lợi nhuận của giàu có đất nước tăng gia và tỉ xuất nghèo khổ giảm bớt chỉ còn 24% , bất bình đẳng vẫn tiếp diễn và phân phối mức giàu có gia tăng cho mọi dân Pê Ru tuồng như gặp khó khăn. Đặc biệt hạ tầng cơ sở các tỉnh Pê Ru yếu kém, không những cản ngăn đầu tư thêm, mà còn làm chậm trễ các cố gắng lan tràn giàu có. Hơn nữa, các tranh chấp chánh trị và các phản đối chống các đầu tư ngọai quốc cản trở phát triễn vài dự án liên quan đến khai thác tài nguyên thiên nhiên chính ngay tại các tỉnh này.
Dù sao, Pê Ru được Cơ quan Tiền tệ Quốc tế - IMF xem là một ngôi sao sáng đang trổi dậy nhờ nền móng vững bền, một khung cảnh chánh sách nhạy cảm và một lề lối kinh tế đại trà - macroeconomic thận trọng, gíup tăng trưởng lâu bền và giảm bớt tính dễ tổn thương .
GDP
Sau nhiều năm hiệu năng kinh tế chập chừng, trong 10 năm qua kinh tế Pê Ru phồn thịnh và đã tăng GDP hơn gấp ba lần. Ngay cả trong 4 năm qua, lúc tỉ xuất tăng trưởng GDP suy giảm ( thay vì đỉnh cao năm 2007 là 9.8% trụt xuống 8.8% năm 2009, 5.3% năm 2012 và 5.4% năm 2013 ) vì giá cả kim loại thấp hơn ,ảnh hưởng tai hại đến xuất khẩu và yêu cầu nội địa kém hơn, Pê Ru vẫn có một tỉ xuất tăng gia GDP cao nhất Mỹ Châu La tinh và thế giới. Ước lượng mức tăng trưởng GDP năm 2014 là 5.4% và năm 2015 là 5.9 % .
Năm 2006, GDP Pê Ru là 92.3 tỉ $ ( đô la Mỹ) , năm 2010 là 157.3 tỉ, năm 2013 là 210 tỉ . Để so sánh phần nào, năm 2006, GDP Việt Nam chừng 71.5 tỉ, năm 2010 chừng 104.5 tỉ.
Thành phần GDP Peru chia theo lảnh vực như sau vào năm 2013 : Nông nghiệp kể cả chăn nuôi 6.4% , Ngư nghiệp 0.6%, Dịch vụ 29.4%, Khai thác hầm mỏ và dầu lữa - khí dầu 20.5 %, Xây cất 8.2%, Chế tạo- manufacturing 1.4%, Điện và Nước 1.9 %, Giao thông và Viễn thông 9.7%, Thương mãi 15%, Tiệm ăn và Khách sạn 4.4% .
Hầm mỏ
Khai thác hầm mỏ là một tài nguyên quan trọng thu ngọai tệ và là lý do tại sao một thành phần đáng kể đầu tư lại dành cho ngành này suốt thập niên vừa qua. Dù rằng chỉ khỏang 10% lảnh thổ có tiềm năng khai thác trầm tích đã được thám hiểm và khỏang 6% khai thác , xuất khẩu của ngành hầm mỏ nay là lực thúc đẩy mạnh nền kinh tế quốc gia. Các kim lọai chány khai thác là bạc, kẻm, đồng, molybdenum, chì và vàng kim. Theo Nghiên cứu của Sở Địa chất Hoa Kỳ từ năm 2012, Pê Ru đứng hàng thứ hai thế giới về Bạc, thứ ba về Kẽm , thứ ba về Đồng , thứ tư về Molybdenum, thứ tư về Chì và thứ 6 về Vàng kim . Khai thác không chánh thức mỏ vàng đã làm cho nhiều vùng to lớn rừng mưa Amazon bị tàn phá nặng nề. Các kim lọai, khóang chất- minerals không phải là kim khí ( lọai ) - metal phần lớn sử dụng trong nước làm vật liệu công nghệ đồ men sành sứ và ở kích thước nhỏ hơn cho công nghệ hóa chất và phân bón hóa học. Các công ty địa phương nhắm vào sản phẩm hay bán phẩm trong số các khóang chất không phải là kim lọai tiềm năng lớn hơn là diatomít , bentonít và borate cũng như phosphát. Có cơ hy vọng là đầu tư ngọai quốc sẽ tiếp diễn trong những năm tới về khai thác hầm mỏ và hydrocarbons.
Ngành đánh cá
Đánh cá là một trong những ngành họat động chánh cho lảnh vực xuất khẩu . Peru có gần 2500 km bờ biển và dòng hải lưu Humboldt Current giàu và lạnh lẻo là “lảnh thổ biển” cho đa dạng lớn cá , động vật nhuyễn thể, thân mềm- mollusk, động vật vỏ giáp - crustacean, động vật đa gai- echinoderm và nhiều lọai tảo - algae. Đến nay, Pê Ru chỉ mới khai thác khỏang ⅕ tài nguyên này . Ngành đánh cá thỉnh thỏang bị chánh phủ kiểm sóat , cố gắng giảm bớt lạm thác và tăng cường mức vững bền ngành đánh cá thiết lập cô ta -quota đánh cá. Thêm vào đó, Chánh phủ thiết đặt cấm đánh cá , tùy theo cở cá lớn -bé. Tuy nhiên, các đầu tư chủ yếu vào các nhà máy chế biến ở thập niên 1960 , giúp Pê Ru trở.thành nước chánh yếu thế giới về sản xuất bánh dầu cá và dầu cá ( dùng nuôi súc vật hay làm phân bón ). Nhưng năm gần đây, sản xuất cá dùng ăn trức tiếp duới thể cá đông lạnh hay xông khói quan trọng thêm. So sánh với ngành thủy- hải sản Việt Nam có bờ biển dài hơn Pêru (3400km ) ở bài Tỉnh Kiên Giang, sách “ Theo dõi bóng Quê Hương Việt Nam - 2015” tập I , các trang 280 -283 ) .
Nông nghiệp
Trên phương diện tài nhuyên di truyền, Pê Ru chứa 25 000 lòai thực vật- loại cây cối. Gần 4 400 lòai đã được sử dụng làm thực phẩm, thuốc chửa trị bệnh, trang trí, gia vị - spices , thuốc nhuộm, phụ khoa - gynecology, các đặc tính hương thơm và phấn sáp. Pê Ru như đã nói là một nước đa năng lớn gồm 84 trong số 104 vùng đời sống thế giới công nhận ở 11 vùng sinh thái thiên nhiên nước nhà. Lọat khí hậu rộng rải này giúp cho Pê Ru trồng bất cứ lọai mùa màng nào, vài lọai suốt cả năm. Trong 20 năm qua, trái cây và rau đậu phát triễn mạnh mẽ đã giúp Pê Ru đóng một vai trò thị trường xuất khẩu nông phẩm quan trọng . Tuy cà phê và đường mía truyên thống là nông phẩm cvhánh xuất khẩu , nay Pê ru đã thành quốc gia số một thế giới về xuất khẩu măng tây - asparagus , ớt khô - dried paprika.
Pê Ru là nuớc xuất khẩu măng tây đứng hàng thứ nhất thế giới ; đồng thời cũng là nơi trồng và biến chế măng tây cao kỷ nhất , lề lối tiêu chuẩn hầu tối hảo hóa phẩm giá để làm thành một sản phẩm sành điệu - gourmet, sản xuất suốt năm . Các nước nhập khẩu măng tây Pê Ru nay là : măng tây tươi : Hoa Kỳ , Hà Lan , Vương Quốc Anh , Tây Ban Nha và Nhật ;măng tây đóng hộp là Tây Ban Nha , Pháp , Hoa Kỳ, Đức; măng tây đông lạnh là Hoa Kỳ, Nhật , Ý . Tây Ban Nha và Hà Lan . Khi nào thì các nhà trồng tĩa giỏi dang măng tây Lâm Đồng , quanh núi Ba Vì … đuổi kịp Pê Ru ? Các xuất khẩu đáng kể khác là ar ti sô, xoài to trái, tiêu , nho , bơ trái - avocado, dẽ - chestnuts , chuối , củ hành trắng v.v... Đặc biệt là các nông phẩm hửu cơ- organic tỉ như cà phê và chuối hửu cơ đứng hạng nhất xuất khẩu thế giới . Các nông phẩm hửu cơ khác là : xòai , bông vải và ca cao . Pê Ru cũng có nhiều nông phẩm địa phương nhiều protêin như quinoa , rau dền - amaranth , và Tarwi cùng rất nhiều lọai bắp ( ngô ) , khoai tây, thuốc cây cỏ và hoa nhiệt đới . Giống ớt Piquillo Pepper Pê Ru trồng ở các đụn cát trơ trọi miền Bắc Piura, Lambayeque và La Libertad , nuôi sống hơn 6000 gia đình trồng giống ớt này. Đây là một giống ớt đỏ chói, mùi vị cay thơm cho kiểu nấu ăn Tây phương cận đại ở Hoa Kỳ cũng như ở Âu Châu . Ớt Piquillo chứa nhiều sinh tố A và C cũng như Calcium . Bộ Canh nông Hoa Kỳ cũng cho phép nhập khẩu đu đủ , xòai to trái, và cam qúit Pê Ru vào Hoa Kỳ, sau nhiều năm công tác khó khăn giữa các cơ quan kỷ thuật Hoa Kỳ và Pê Ru. Tháng chín năm 2015 , Hoa Kỳ đã sửa đổi luật lệ điều hòa trái cây và và rau đậu cho phép nhập khẩu Capsicum ( ớt tươi và ớt cay - chili ) vào Hoa kỳ và các lảnh thổ territories ( Puerto Rico …) từ Pê Ru. Năm 2016, quốc gia này sẽ trở thành nước đứng hạng hai về xuất khẩu nho tươi - grape table ơ/ các vùng Piura, Lambaeque và La Libertad qua Trung Quốc, Hồng Kông , Hoa Kỳ và Hà Lan . Nho tươi là hàng nông phẩm xuất khẩu đứng thư ba , sau hột cà phê và măng tây.
Pê Ru cũng trồng nhiều cây coca , lá dùng chế tạo ma túy cocain. Năm 2000, diện tích các lùm bụi coca là 43 400 ha, năm 2010 đã lên đến 61 200 ha . Cố gắng chánh phủ Pê Ru chặn đứng lan tràn trồng coca bất hợp pháp không đem lại kết quả. Vì nhiều nơi nguồn lợi chánh của nông dân nghèo khổ là lá coca . Nay Pê Ru là một trong những nước đứng hàng đầu sản xuất coca , chánh quyền ước lượng năm 2010 , sản xuất cocain là chừng 330 tấn. Trà coca (mate de coca ), hợp pháp ở Pê Ru, bán ra khắpmọi siêu thị Pê Ru , thường được khuyến cáo cho du khách leo núi Andes để ngăn ngừa và giảm bớt các triệu chứng khó thở trên cao độ , dưới các dạng bột coca, nước uống năng lượng coca , các thanh năng lượng coca và các kẹo co cạ. Sử dụng ca cao là một truyền thống văn hóa , tôn giáo và y khoa xứ này.
Lâm nghiệp
50 % đất đai Pê Ru do rừng bao phủ. Các vấn đề hạ tầng cơ sở khiến cho tài nguyên rừng to lớn bị nghèo đi vì lạm thác và phá rừng trồng coca bất hợp pháp không bị động chạm tới . Cân bằng thương mãi Pê Ru về sản phẩm gỗ là âm tính. Ngày nay các sản phẩm rừng là gỗ balsa lumber, gôm balata, cao su và một lọat cây cỏ làm thuốc. Đáng kể là cây cinchona dùng chế tạo ký ninh - quinine trị sốt rét.
Tơ sợi
Ngành công nghệ tơ sợi Pê Ru bắt nguồn từ việc trồng bông vải xưa cỗ và các kỷ thuật nhuộm và dệt tơ sợi phi thường các nền văn hóa Tiền Kha Luân Bố phát triễn. Giống bông vải nổi tiếng Pima của Peru đã được du nhập trồng thử ở Ninh Thuận, Đắc Lắc cuối thập niên 1950, đầu thập niên 1960. Hạ tầng cơ sở tơ sợi tăng trưởng mảnh liệt ở Pê Ru căn bản là nhờ sản xuất tơ sợi được công nhận là một ngành doanh vụ chiến lược cho quốc gia . Dù hiện nay phần lớn nhà máy tơ sợi kích thước bé nhỏ, trtong 10 năm qua , các nhà máy dọc theo bờ biển Pê Ru đã đầu tư vào kỷ thuật điêu nghệ - state-of-the -art. Các máy may tự động, các đơn vị nhuộm tập trung, các máy nhuộm tân tiến, các máy làm dày đặc - compacting machines trang bị làm khăn choàng - foulard và hòan tất khác bảo đảm những tơ sợi cao phẩm nhất. Giống bông vải Pima là một trong những giống mịn mà nhất thế giới và cung cấp cho ngành công nghệ Pê Ru một lọai sợi dài đặc biệt về sức mạnh khó đứt , bóng nhóang và dịu mềm . Sợi lông cừu Apaca và đặc biệt là len Peruvian Baby Alpaca đã được nhìn nhận khắp thế giới . Apaca là một lòai lạc đà - camelid , gặm cỏ ở cao độ 3300m đến 4700 m trên các đồng bằng hà khắc các dãy núi Andes . Áo lông Apaca xa hoa có đrến 40 màu sắc từ ngà đến đen , và mọimàu xám hay đà giữa chúng . Ngày nay Alpaca nổi tiếng ở thế gipới thời trang nhờ tích cách mềm fịu không ai sánh kịp , mềm dẽo khi nhuộm và họa kiểu nhiều mốt. Sợi Alpaca ấm và mạnh hơn len cho vên kháng bảo hòa và gần như không thấm nước . Nó cũng không gây ra ngứa ngáy khó chịu như lanolin trong len làm alpaca là lọai giảm dị ứng- hypoallergenic. Caác thóang màu lợt của bộ lông Alpaca bắt thuốc nhuộm dễ dàng khiến chúing giá trị cao khi các nhà họa kiểu muốn sản xuất một họa kiểu sinh động .
…
( Irvine Nam Ca Li - Hoa Kỳ ngày 3 tháng 11 năm 2015 )