13/12/2015
LÚA GẠO QUA VĂN HÓA DÂN GIAN: CA DAO, TỤC NGỮ, VÀ DÂN CA
NGUYỄN VĂN NGƯU PhD
|
Ca dao, tục ngữ, dân ca là văn hóa dân gian Việt Nam. Từ ngàn xưa người Việt Nam dùng ca dao, dân ca và tục ngữ để diễn tả những nhận xét và kinh nghiệm về cuộc sống của mình. Ca dao, Tục ngữ, Dân ca phản ánh nếp sống, phong tục, tập quán truyền thống và phản ánh đời sống tình cảm nhân dân. Ca dao, Tục ngữ, Dân ca được truyền miệng dưới dạng những câu hát câu hò, thường phổ biến theo thể thơ lục bát cho dễ nhớ, dễ thuộc.
Lúa gạo là thức ăn là tiền của của người Việt Nam trong nhiều ngàn năm. Những cánh đồng lúa, những mùa lúa, những công việc trồng lúa, sản xuất lúa và biến chế lúa đã đi vào và đã gắn bó thiết tha với cuộc sống của người Việt Nam qua ngàn năm lịch sữ.
Do đó, có rất nhiều ca dao, tục ngữ, và dân ca nói về lúa gạo, các sản phẩm từ lúa gạo, giá trị của lúa gạo, công việc sản xuất và chế biến lúa gạo. Những trang sau đây ghi lại kết qủa của công việc tìm kiếm về ca dao, tục ngữ, và dân ca liên hệ với lúa gạo và công việc sản xuất và biến chế lúa gạo của người Việt Nam. Rất mong nhận được đóng góp, phê bình và chĩ trích để cải thiện bài viết.
Kính chào
Nguyễn Văn Ngưu
PHẦN I: LÚA LÀ LƯƠNG THỰC VÀ TIỀN BẠC CỦA CẢI
Cây lúa hay cây Oryza sativa là loài thực vật sống hàng năm. Cây lúa được nông dân Việt Nam trồng để sản xuất lương thực trong suốt mấy ngàn năm lịch sữ. Nhiều bằng chứng khảo cổ cho thấy những con ngừơi đầu tiên sinh sống trên mảnh đất của Việt Nam trong thời đại đá củ và Việt Nam là một trung tâm nguyên thủy của ngành trồng lúa. Nước Việt Nam được thành lập cách đây chừng 4000 năm trước đây hay 2000 BC và lúa gạo là thừc ăn căn bản của dân chúng. Nông dân, người sản xuất, có nhiều lúa gạo bán cho những người không có lúa gạo trong xã hội và từ đó lúa gạo đã trở thành tiền bạc và của cải. Một số địa phương trong nước được nổi tiếng nhờ vào sản xuất lúa gạo. Những trang dưới đây ghi lại các ca dao, tục ngữ và dân ca về cây lúa, về khía cạnh lúa gạo là thức ăn và tiền của và những địa phương nổi tiếng nhờ lúa gạo.
Cây Lúa
Không biết bắt đầu từ bao giờ người Việt Nam gọi cây Oryza sativa là cây lúa. Cây lúa hay cây Oryza sativa là loài thực vật sống hàng năm, có thể cao tới 1-1,8 m, đôi khi cao hơn, với các lá mỏng, hẹp bản (2-2,5 cm) và dài 50–100 cm. Các hoa nhỏ tự thụ phấn mọc thành các cụm hoa phân nhánh cong hay rủ xuống, dài 30–50 cm. Người Việt Nam đã gắn bó nhiều với cây lúa xinh đẹp. Cây lúa trở thành một nét đẹp trong đời sống văn hóa và tinh thần.
Em xinh là xinh như cây lúa
Đố ai biết lúa mấy cây
Biết sông mấy khúc biết mây mấy từng
Ở một số địa phương, như Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quãng Bình, và Quãng Trị, dân chúng gọi lúa là ló.
Căn ló không bằng xó nhà
Cơm ló lốc, trốc cá rô (Nghệ An, trốc = đầu)
Chen chúc giữa đất Yên Hồ,
Cơm khoai thì ít, ló ngô thì nhiều (Hà Tĩnh)
Dại như chó có ló cũng khôn (Quảng Trị)
Người Mường gọi lúa là hông còm.
Trăm thứ hoa không bằng hoa con gái
Trăm thứ trái không bằng trái hông còm (Người Mường)
Hết thời kỳ xuân xanh, cây lúa chuyển sang giai đoạn “tròn mình”, “đứng cái” rồi “ôm đòng”. Đòng lúa to nhanh, nắng mưa rồi mỗi ngày mỗi khác. Nếu mưa thuận gió hoà chỉ mươi hôm là lúa trỗ xong. Chừng một tháng sau khi trỗ bông lúa chín vàng đầy cánh đồng.
Anh đi lúa chửa chia vè,
Anh về lúa đã đõ hoe đầy đồng
Anh đi em chửa có chồng
Anh về em đã tay bồng tay mang
Hoa lúa, sau khi thụ phấn, phát triển và trưởng thành cho ra hạt lúa dài 5–12 mm và dày 2–3 mm. Ở Việt Nam, hạt lúa củng thường được gọi là hạt thóc. Hạt lúa/thóc và người nông dân cần cù, mộc mạc là mảng màu không thể thiếu trong bức tranh của đồng quê Việt nam hiện nay và mãi mãi về sau.
Thóc lúa về nhà, lợn gà ra chợ
Thóc cót thóc bồ, Bồ còn thóc hết
Có lẽ người Thái ớ Việt Nam gọi hạt lúa/thóc là khao pueak như người Lào hay khao như người Thailand. Tương tự như vậy người Cambodian ớ Việt Nam gọi hạt lúa/thóc là srau; người Burmese ớ Việt Nam gọi là kauk; và người Chàm ớ Việt Nam gọi là gabah như người Indonesian hay palay như người Philippines.
Lúa Gạo Là Lương Thực
Sau khi đuợc xay xát để tách bỏ vỏ trấu, hạt lúa hay hạt thóc cho ra hạt gạo. Hạt gạo thường có màu trắng, nâu hoặc đỏ thẫm, chứa nhiều dinh dưỡng. Hạt gạo sau khi xay được gọi là gạo lứt hay gạo lật, nếu tiếp tục xát để tách cám thì gọi là gạo xát hay gạo trắng. Gạo là thực phẩm chính của người Việt Nam từ khi đất nước được thành lập và là lương thực phổ biển của gần một nửa dân số thế giới. Ở Việt Nam có hai loại/nhóm lúa chính: lúa tẻ và lúa nểp.
Anh thưa với mẹ cùng cha
Nếp mà lộn tẻ, lựa ra hay đừng ?
Sản phẩm của công việc xay hạt lúa tẻ là gạo, trong khi đó sản phẩm của công việc xay hạt lúa nểp là nếp hay gạo nếp. Có lẽ, các nhóm người thiểu số ở có thễ gọi gạo và gạo nếp bằng các tên khác. Ở Việt Nam có thễ người thiểu số Trung Hoa gọi gạo là mi, người thiểu số Cam Bốt gọi gạo là angko, người thiểu số Lào gọi gạo là khao sane, người thiểu số Thái gọi gạo là khao san, người thiểu số Miến gọi gạo là kauk sann, và người thiểu số Chàm gọi gạo là beras như người Indonesian và Malaysian hay bigas như người Philippines.
Tương tự như vậy, người thiểu số Cam Bốt gọi nếp là damnoeub, người thiểu số Lào gọi nếp là khao niaw, người thiểu số Thái gọi nếp là khao niao, người thiểu số Miến gọi gọi nếp là kauk hnyin, và người thiểu số Chàm gọi nếp là pulut như người Indonesian và Malaysian hay malagkit như người Philippines.
Sau nấu nướng, gạo tẻ cho ra cơm và gạo nếp cho ra xôi hay cơm nếp. Qua hàng nghìn năm lịch sử, cơm và xôi là thức ăn chính của người dân Việt Nam. Ngay từ khi còn trong lòng mẹ, người Việt Nam chúng ta đã làm quen với cơm gạo, và lớn lên theo cây lúa cùng hạt gạo.
Người sống về gạo, cá bạo về nước
Lấy bát mồ hôi đổi bát cơm
Bớt bát cơm mặt còn hơn nợ nần
Ăn cơm hom, nằm giường hòm
Ăn bát cơm dẻo, nhớ nẻo đường đi
Ăn cơm gà gáy, cất binh nửa ngày
Cơm kể ngày cày kể buổi
Cơm tẻ no, xôi vò chẳng thiết
Có xôi nói xôi dẻo, có thịt nói thịt bùi
Ăn mày đòi xôi gấc
Muốn ăn xôi ông ơi xắn áo
Ăn cơm sao đặng mà mời
Nước mắt lênh láng rã rời hạt cơm
Cơm ăn mỗi bữa mỗi lưng
Hơi đâu mà giận người dưng thêm gầy
Bao giờ cho đến tháng năm
Thổi nồi cơm nếp vừa nằm vừa ăn
Bao giờ cho đến tháng mười
Thổi nồi cơm nếp vừa cười vừa ăn (cơm nếp= xôi)
Mẹ già Ăn chuối Bà Hương,
Ăn xôi nếp một, ăn đường mía lau
Theo truyền thuyết dân gian, trong đời Vua Hùng thứ 6, Thánh Gióng ăn cơm trước khi dùng ngựa sắt, kiếm sắt, và roi sắt để đuổi giặc Ân.
Bảy nong cơm, ba nong cà
Uống một hơi, cạn đà khúc sông
Cơm hay xôi là thức ăn chính của người Việt Nam. Tuy nhiên, những người dân Việt Nam nghèo khó thì cơm hay xôi là thức ăn khó kiếm. Có được hai bữa cơm hay xôi một ngày là điều rất may mắn đối với đại đa số người Việt Nam.
Cơm dưa muối, khó khăn mới có
Của không ngon, nhà khó cũng ngon
Ngày hai bữa cơm no
Đời vui như thế đó
Người Việt Nam, nói chung, không thích ăn cơm nguội, cơm sống, cơm nhão, v..v...và họ thích ăn cơm ngon.
Chàng ơi phụ thiếp làm chi
Thiếp là cơm nguội, những khi đói lòng
Cơm sống là cơm thảo, cơm nhão là cơm hà tiện
Cơm sống tại nồi, cơm sôi tại lửa
Khi được nấu, gạo của các giống lúa như Tám Xoan, Nàng Quốc, Gié An Cựu, Nếp Thơm , v…v… tỏa một mùi thơm và ngon cơm được nhiều người thích.
Thú quê rau, cá đã từng
Gạo thơm cơm trắng chi bằng tám xoan (Bắc Bộ)
Tôm rằn bóc vỏ bỏ đuôi
Gạo thơm Nàng Quốc em nuôi mẹ già (Nam Bộ)
Tôm rằng lột vỏ bỏ đuôi,
Gạo Gie An Cựu mà nuôi mẹ già (Thua Thien Huế)
Mẹ già là mẹ của anh,
Ăn cơm có cá, có canh rau bầu
Hạt gạo lúa dâu xót hai đầu cho trắng,
Tôm phơi một nắng bóc vỏ nấu canh,
Múc nước trong xanh để mẹ già tắm mát (Quảng Bình)
Gặp cơm Ba Thắc thơm ngon
Chan nước mắm Hòn ăn chẳng muốn thôi (Lục Tỉnh, Nam Bộ)
Gạo tám xoan, gan cá bống (Nghệ An)
Mẹ già là mẹ của anh
Ăn cơm có cá, có canh rau bầu
Hạt gạo lúa dâu xót hai đầu cho trắng,
Tôm phơi một nắng bóc vỏ nấu canh,
Múc nước trong xanh để mẹ già tắm mát (Quảng Bình)
Tôm rằng lột vỏ bỏ đuôi,
Gạo Gie An Cựu mà nuôi mẹ già (Thua Thien Huế)
Tôm rằn bóc vỏ bỏ đuôi
Gạo thơm Nàng Quốc em nuôi mẹ già (Nam Bộ)
Gặp cơm Ba Thắc thơm ngon
Chan nước mắm Hòn ăn chẳng muốn thôi (Lục Tỉnh, Nam Bộ)
Người Việt Nam, do đó, rất cẩn thận khi nấu cơm. Họ không dùng nước đục, không thich dùng rơm để nấu cơm (rơm là phần thân trên của cây lúa sau khi đập lúa).
Tiếc thay hột gạo trắng ngần,
Đã vo nước đục, lại vần than rơm.
Tiếc thay hạt gạo tám xoan,
Thổi nồi đồng điếu lại chan nước cà.
Gạo cũng có thể nấu thành cháo. Các món cháo rất dễ tiêu hóa và vì thế nó đặc biệt thích hợp cho những người bị ốm, người già.
Cơm ráo, cháo dừ
Cháo nóng húp quanh, công nợ trả dần
Ăn cháo đá bát, qua cầu rút ván
Ăn cơm tấm ấm ổ rơm
Lúa Gạo Là Tiền Của
Đối với người Việt Nam, hạt lúa là hạt vàng. Bài dân ca Thằng Bờm sau đây cho ta thấy thông thường người dân bình thường đánh giá cơm/xôi hơn vàng bạc, tiền của. Với người nghèo đói như Thằng Bờm thì cơm/xôi còn quí hơn vàng bạc, con trâu, con cá, khuc gỗ, v..v..
Thằng Bờm có cái quạt mo
Phú ông xin đổi ba bò chín trâu
Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu
Phú ông xin đổi một xâu cá mè
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mè
Phú ông xin đổi một bè gỗ lim
Bờm rằng Bờm chẳng lấy lim
Phú ông xin đổi con chim đồi mồi
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mồi
Phú ông xin đổi nắm xôi
Bờm cười
Người thiểu số Mường cũng coi hạt thóc như hạt vàng
Ruộng anh cấy thóc dâu thóc tám
Trong năm nay vô hạn được mùa
Gặt xong sớm rồi đưa vào bịch
Hạt thóc khô chẳng khác gì vàng (Người Tày)
Do đó, thóc/lúa/gạo là tiền, là bạc, là giàu có. Nhà có nhiều thóc gạo là nhà giàu có.
Ngồi đống thóc, móc đống tiền
Chứa tiền chứa thóc thì giàu
Khen nhà giàu lắm thóc
Lời nói, quan tiền, thúng thóc
Nhà giàu mua vải tháng ba, bán gạo tháng tám mới ra nhà giàu
Tiền hết gạo không, tiền lưng gạo bị
Có lúa có mọi đường (Người Thái)
Gạo mua không đủ gạo xin chẵng no (Người Thái)
Gạo chợ một tiền mười thưng
Mẹ còn nhịn đói vì chưng không tiền
Ruộng ta vừa xấu vừa sâu
Vừa bé hạt gạo vừa lâu đồng tiền
Hết mạ ta lại quảy thêm,
Hết lúa ta lại mang tiền đi đong
Có nhiều thóc gạo, con người trở thành giàu có và mạnh bạo, coi ai không ra gì cả
Ông tiền ông thóc, ông cóc gì ai
Bà tiền bà thóc, bà cóc gì ai
Chị kia có quan tiền dài
Có bị gạo nặng coi ai ra gì
Ở Việt Nam, do đó, một mùa lúa tốt có năng suất cao cho ra nhiều lúa sẽ cung cấp cho gia đình nông dân không những đầy đủ thức ăn mà còn có nhiều tiền của để trả sưu thuế. Nông dân dùng các phó sản phẩm của công việc xay giã thóc lúa để nuôi gia súc để bán, làm phân cho mùa lúa sau.
Cám ơn hạt lúa nàng co,
Nợ nần trả hết, lại no tấm lòng (Tiền Giang)
Nhờ trời một mẫu năm nong thóc đầy
Năm nong đầy, em xay, em giã
Trấu ủ phân, cám bả nuôi heo
Sang năm lúa tốt tiền nhiều
Em đong đóng thuế, đóng sưu cho chồng
Khi khí hậu bất thường thì cây lúa không phát triển và có năng suất thấp. Với năng suất thấp nông dân không có tiền của và trở nên nghèo khó, không có đủ tiền để đóng sưu thuế.
Bây giờ gặp phải hội này
Khi trời hạn hán, khi hay mưa dầm
Khi trời gió bão ầm ầm
Đồng điền lúa thóc mười phần được ba
Lấy chi đăng nạp nữa mà?
Lấy chi công việc nước nhà cho đang?
Các Địa Phương Nổi Tiếng Nhờ Lúa Gạo
Mặc dù lúa được trồng trên khắp nước trên toàn lãnh thổ Việt Nam, chỉ có một số địa phương được nổi tiếng nhờ lúa gạo qua ca dao.
Nguyệt Viên lắm thóc nhiều tiền
Có sông tắm mát, có miền nghỉ ngơi (Hà Nội)
Dù ai đi ngược về xuôi,
Cơm nắm lá cọ là người sông Thao
Ai về Nhượng Bạn thì về,
Gạo nhiều, cá lắm, dễ bề làm ăn
Được mùa Kim Thành thuyền mành chở gạo
Được mùa Nông Cống, nuôi sống mọi nơi (Thanh Hóa)
Cá rô Bầu Nón kho với nước tương Nam Đàn,
Gạo tháng mười cơm mới, đánh tràn không biết no (Nghệ An)
Ai về Đức Thọ thì về
Nước trong, gạo trắng nhiều bề làm ăn (Hà Tĩnh)
Đức Thọ gạo trắng nước trong
Ai về Đức Thọ, cho thong dong con người (Hà Tĩnh)
Muốn ăn cơm nếp độ (đỗ) chà
Muốn lấy vợ đẹp thì ra Yên Hồ (Hà Tĩnh)
Lệ Thủy gạo trắng nước trong,
Ai về Lệ Thủy thong dong con người (Hà Tĩnh)
Hoàng Cương ăn tấm cũng no
Đông Viên có thóc bán cho Kẻ Hoàng (Quảng Bình)
Gạo Phước Điền, chiêng Sắc Tứ
Khoai từ Trà Bát, quạt chợ Sông (Quảng Trị)
An Phú có ruộng tứ bề
Có ao tắm mát có nghề kẹo nhạ (Quảng Ngãi)
Muốn ăn cơm trắng canh cầu
Thì về Đồng Lãng (?) đan giần với anh
Đồng Nai gạo trắng nước trong
Ai đi đến đó thì không muốn về
Xay lúa Đồng Nai
Thóc gạo về ngài, tấm cám về tôi
Bốn mùa em chẳng phải lo,
Gạo Đồng Nai, vải Hà Tĩnh ta ấm no trọn đời
Ai về Gia Định thì về
Nước trong gạo trắng dễ bề làm ăn
Gạo Cần Đước, nước Đồng Nai
Ai về xin nhớ cho ai theo cùng
Ai ơi về miệt Tháp Mười
Cá tôm sẵn bắt, lúa trời sẵn ăn
Cần Thơ gạo trắng nước trong
Ai về xứ bạc thong dong cuộc đời
Cần Thơ gạo trắng nước trong,
Ai đi đên đó lòng không muốn về
Thú quê rau, cá đã từng
Gạo thơm cơm trắng chi bằng tám xoan (Bắc Bộ)
Tôm rằn bóc vỏ bỏ đuôi
Gạo thơm Nàng Quốc em nuôi mẹ già (Nam Bộ)
Tôm rằng lột vỏ bỏ đuôi,
Gạo Gie An Cựu mà nuôi mẹ già (Thua Thien Huế)
Gặp cơm Ba Thắc thơm ngon
Chan nước mắm Hòn ăn chẳng muốn thôi (Lục Tỉnh, Nam Bộ)
Gạo tám xoan, gan cá bống (Nghệ An)
Mẹ già là mẹ của anh
Ăn cơm có cá, có canh rau bầu
Hạt gạo lúa dâu xót hai đầu cho trắng,
Tôm phơi một nắng bóc vỏ nấu canh,
Múc nước trong xanh để mẹ già tắm mát (Quảng Bình)
Tôm rằng lột vỏ bỏ đuôi,
Gạo Gie An Cựu mà nuôi mẹ già (Thua Thien Huế)
Tôm rằn bóc vỏ bỏ đuôi
Gạo thơm Nàng Quốc em nuôi mẹ già (Nam Bộ)
Gặp cơm Ba Thắc thơm ngon
Chan nước mắm Hòn ăn chẳng muốn thôi (Lục Tỉnh, Nam Bộ)
Chợ Đào gạo trắng cá tươi
Canh chua, (cá) kho tộ nhớ người năm xưa (Cần Đước, Long An)
MỘT VÀI TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bánh Trái Ngày Tết http://www.cadaotucngu.com/phorum/topic.asp?TOPIC_ID=854
2. http://e-cadao.com/Cadaochude/cadaobanh.htm
3. http://poem.tkaraoke.com/14115/Dac_San_Que_Em.html
4. Nguyễn Văn Ngưu 2001 The Vietnamese Rice Farmer. Pp 97-129 in VIETNAMOLOGICA, Montreal, Quebec, Canada
5. Nguyễn Văn Ngưu 2007 Nghành Sản Xuất Lúa Việt Nam - Nhìn Qua Lịch Sử, Văn Hóa Và Kỹ Thuật. Nhà Xuất Bản Nông Nghiệp. TP Hồ Chí Minh. 232 pp
6. Tìm Ca Dao Theo Các Tỉnh http://e-cadao.com/cadaocactinh.asp
7. Trần Văn Đạt 2003 Tiến Trình PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT LÚA GẠO TẠI VIỆT NAM Từ Thời Nguyên Thủy Đến Hiện Đại. Nhà Xuất Bản Nông Nghiệp. TP Hồ Chí Minh. 315 pp
8. Văn Hóa Nông Nghiệp Qua Ca Dao Tục Ngữ. VĂN HÓA VIỆT. http://e-cadao.com/tieuluan/vanhoa/vanhoanongnghiep.htm
9. Vũ Ngọc Phan 1999 Tục Ngữ, Ca Dao, Dân Ca Việt Nam. Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội. Hà Nội. 832 pp