16/8/2015
Người Việt phải hiểu rỏ hơn nữa:
Singapore ngày nay
G S Tôn thất Trình
|
Phần 1
Lịch sử Singapore
Singapore, tiếng Pháp là Singapour, có khi được Việt hóa là Tân Gia Ba, có một lịch sử bắt đầu từ thế kỷ thứ 13 sau Công nguyên. Sau đó vương quốc Singapura trở nên quan trọng vào thế kỷ thứ 14 dưới trào của Srivijayan hòang tử Parameswara và Singapore trở thành một hải cảng quan trọng, mãi cho đế khi bị giặc cướp biển Acehnese tàn phá năm 1613, Lịch sử cận đại Singapore khởi sự năm 1819 khi huân tước người Anh Sir Stamford Raffles thiết lập hải cảng Anh trên đảo . Dưới quyền Anh Quốc cai trị như một thuộc địa Anh , Singapore càng thêm phần phát triễn tăng trưởng, thành một trung tâm cho cả hai nền thương mãi Ấn Độ và Trung Hoa và là một kho buôn bán cất giữ và phân phối hàng hóa cho Đông Nam Á, mau lẹ biến thành một thành phố- hải cảng chánh yếu.
Trong Thế Chiến thứ Hai, Singapore bị Đế Quôc Nhật chinh phục và chiếm cứ, từ năm 1942 đến năm 1945. Khi chiến tranh chấm dứt, Singapore trở lại duới quyền Anh kiểm sóat, với các mức tự trị mỗi ngày mỗi được phép tăng, mà đỉnh cao là lúc Singapore sáp nhập vào Liên Bang Mã Lai , thành Mã lai Á - Malaysia năm 1963. Tuy nhiên, bất ổn xã hội và tranh chấp giữa Đảng Hành Động Nhân Dân - People’s Action Party cai quản Singapore và Đảng Liên Hiệp Mã Lai Á - Malaysía‘s Alliance Party, có thành quả làm Singapore tách rời khỏi Malaysia. Singapore trở thành một Cộng hòa - Republic độc lập ngày 9 tháng 8 năm 1965.
Đối diện một thất nghiệp nặng nề và một khủng hỏang gia cư, Singapore bắt tay ngay vào một chương trình cận đại hóa khởi sự cuối thập niên 1960 đến thập niên 1970, tụ điểm trên công nghệ chế tạo, phát triễn những gia cư đồ sộ công cọng và đầu tư mạnh mẽ về giáo dục công cộng. Kể từ khi độc lập, nền kinh tế Singapore tăng thêm trung bình mỗi năm là 9% . Đến thập niên 1990, Singapore đã trở thành một trong số quốc gia phồn thịnh nhất thế giới, có một nền kinh tế thị trường tự do phát triễn cao, những liên kết thương mãi quốc tế vững vàng và sản phẩm lợi tức ròng nội địa mỗi đầu người cao nhất Á Châu, ngọai trừ Nhật Bổn.
Phần I : Từ “ Cù lao Cuối Pu luo Chung ( thế kỷ thứ 3 ) “ đến “Thành phố Sư Tử Singa pura ” ( thế kỷ thứ 13) , rồi đến quốc gia “ Cộng Hòa Singapore” năm 1965
Singapore xưa cũ
Ghi chép xưa nhất về Singapore là tài liệu Tàu vào thế kỷ thứ ba, mô tả đảo Cù Lao Cuối ( Trùng ), Pu luo Chung ( ? ) phỏng theo tên Mã Lai là Pulau Ujong , có nghĩa là đảo cuối Bán Đảo Mã Lai. Các sử biên niên Mã Lai Seraju Melayu - Malay Annals chứa một câu chuyện của hòang tử của Srivijaya Sri Tri Buana - Sang Nila Utama , đổ bộ lên đảo trong thế kỷ thứ 13 . Khi hòang tử thấy sư tử, ông gọi nơi này là - Singa pura Thành phố SưTử ( Lion City ) theo tiếng Mã Lai . Tuy nhiên, Singapore không bao giờ có sư tử cả, mà chỉ có đầy cọp, hổ -tiger mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới thôi. Vì là thành phần của Đế quốc Sri Vijaya , vào thế kỷ thứ 1 , Singapore bị Hòang đế Nam Ấn Độ Rajendra Chola I, Đế quốc Chola xâm chiếm.
Năm 1320, Đế Quốc Mông Cổ gửi một sứ mệnh thương mãi đến một nơi gọi là Long Ya ( Nha ) Men - Dragon ‘s Tooth Straits có thể là hải cảng Keppel Harbour phía Nam đảo . Nhà du lịch Vương ( Uông ) Đại Viên ( Viên ? )- Wang Dayuan viếng thăm đảo, khoảng năm 1330 , một khu định cư nhỏ gọi là Đan Ma Xi theo tên Mã Lai là Tamasik, có cư dân là Mã Lai và Tàu. Những khai quật mới đây ở Fort Canning tìm ra chứng cớ Singapore là một hải cảng quan trọng vào thế kỷ thứ 14.
Trong thế kỷ thứ 14, Singapore bị lọt vào giữa sự tranh dành giữa Xiêm ( nay là Thái Lan ) và Đế quốc Majapahit căn cứ ở Java , để kiểm sóat Bán Đảo Mã Lai. Theo biên niên Seraju Melayu, chỉ một tấn công Majapahit là Singapore đại bại. Majapahit cai trị đảo nhiều năm, trước khi vị đuổi về Malaka , nơi ông thiết lập quốc vương đạo hồi -sultanate of Malacca. Vào đầu thế kỷ thứ 15, Singapore là chư hầu Thái Lan, nhưng vuơng quốc đạo hồi Malacca mau chóng mở rộng quyền hành trên đảo. Sau khi Bồ Đào Nha xâm chiếm Malacca năm 1511, đô đốc Mã Lai chạy trốn đến Singapura và thành lập thủ đô mới Johor Lama , cử một sĩ quan cai trị Singapore . Bồ Đào Nha phá hủy các khu định cư ở Singapore năm 1587 và đảo này chìm trong bóng tối suốt hai thế kỷ kế tiếp .
Thiết lập Singapore Cận đại ( 1819 )
Giữa thế kỷ thứ 16 và thứ 19, Quần Đảo Mã Lai dần dần bị các cường quốc Âu Châu thu phục, bắt đầu bằng việc Bồ Đào Nha đến Malacca năm 1509 . Ngự trị ưu thế của Bồ Đào Nha bị Hà( Hòa ) Lan thách thức trong thế kỷ thứ 17 để kiểm sóat đa số các hải cảng trong vùng. Hòa Lan thiết lập một độc quyền buôn bán trên quần đảo, đặc biệt về gia vị - spices , lúc bấy giờ là sản phẩm quan trọng nhất của Vùng. Các cường quốc thuộc địa, khác tỉ như dân Anh, chỉ hiện diện tương đối giới hạn.
Năm 1818, Huân tước Sir Stamford Raffles, được bổ nhiệm là Phó Thống Đốc thuộc địa Anh ở Bencoolen. Ông cương quyết là Đại Anh Quốc - Great Britain sẽ thay thế Hòa Lan như thể là một cường quốc ưu thế ở quần đảo, vì lẽ con đường thương mãi giữa Trung Hoa và Ấn Độ Anh quan trọng khẩn thiết quan trọng với việc thành lập buôn bán thuốc phiện với Trung Hoa, đi ngang qua quần đảo. Hòa Lan đã cản trở buôn bán Anh trong vùng, cấm đóan dân Anh họat động ở các hải cảng Hòa Lan kiểm sóat hay bắt họ đóng thuế cao. Raffles hy vọng thách thức Hòa Lan bằng cách thành lập một hải cảng mới dọc theo Eo Biển Malacca, con đường chánh tàu bè đi qua cho buôn bán Trung Hoa - Ấn Độ. Ông thuyết phục Công tước Lord Hasting, Tòan Quyền Ấn Độ và Cấp Trên ông ở Công ty Đông Ân Độ Anh- British East India Company tài trợ một viễn chinh, tìm kiếm một căn cứ Anh mới cho vùng.
Raffles đến Singapore ngày 28 tháng giêng 1819 và rồi nhìn nhận đảo này là một lựa chọn tự nhiên cho một hải cảng mới. Đảo nằm chóp Nam bán đảo Mã Lai , gần Eo Biển Malacca., và có một cảng biển sâu thiên nhiên, các nguồn cung cấp nước ngọt - fresh water và gỗ sửa chửa tàu bè . Raffles tìm ramột khu định cư Mã Lai nhỏ bé , dân số khỏang 1000 người ở cửa sông Singapore do Temenggong Abdu’ r Rahman điều khiển. Đảo do tiểu vương - Sultan of Johor cai quản trên danh nghĩa - hư vị, dưới quyền kiểm sóat của Hòa Lan và Bugis. Tuy nhiên, vương quốc hồi giáo này yếu kém vì chia rẽ bè phái và Temenggong Abdu’r Rahman và các chức quyền của ông trung thành với ông anh lớn tuổi hơn là Tengku Hussein ( hay Tengku Long ) sống lưu đày ở Riau. Nhờ Temenggong giúp đở, Raffles đưa lén lút Hussein trở về lại Singapore. Ông cống hiến nhìn nhận Hussein là tiểu vương hồi gíáo của Johor và trả lương hàng năm cho Hussein . Ngược lại, Hussein sẽ cho không, tặng dân Anh quyền hạn thiết lập một đồn buôn bán tại Singapore. Một hiệp ước chánh thức được ký kết ngày 6 tháng 2 năm 1819 và Singapore cận đại ra đời. Nhắc lại là năm 1623, nghĩa là gần 200 năm trước , vua Chân Lạp Chey Chetta II đồng ý nhượng khu dinh điền Mỗi Xuy - Mô Xòai gần Bà Rịa ngày nay cho Việt Nam khai khẩn và năm1665 đã có 1000 người Việt (tương đương dân số Singapore năm 1819) lập nghiệp ở vùng này và Chúa Sải Nguyễn Phúc Nguyên đã đóng đồn ở Prey Nokor - Sài gòn ( ? ) và Kras Krobei ( quận 1 - Bến Nghé ) bảo đảm an ninh cho Mỗi Xuy. Như đã nói, truớc khi Raffles đến, có chừng 1000 người sinh sống ở Singapore, đa số là Mã Lai và vài chục dân Tàu . Đến năm 1869 , nhờ di cư từ Malay và các nơi khác Á Châu , dân số Singapore đã lên đến 100 000. Rất nhiều dân di cư Tàu và Ấn Độ đến Singapore để họat động ở các đồn điền cao su và các mỏ thiếc, các con cháu họ sau đó làm thành khối lựợng lớn dân số Singapore.
Tăng trưởng sớm sủa ( 1819- 1926 )
Raffles trở lại Bencoolen sau khi ký kết thỏa hiệp và lưu Thiếu tá William Farquhar đặc trách khu định cư mới, cùng vài đại bác và một tiểu đòan lính Ấn Độ . Thiết lập một cảng buôn bán từ số không là một công cuộc chán ngấy. Chánh quyền Farquhar có đầy đủ tài chánh và bị cấm không được thâu thuế cảng để tăng lợi tức , khi Raffles đã quyết định là Singapore sẽ trở thành một hải cảng tự do. Farquhar đón mời dân đến Singapore định cư và đặt một sĩ quan Anh ở đảo Saint John ‘s, mời các tàu đi qua ngưng lại ở Singapore . Khi tin tức hải cảng tự do lan tràn khắp quần đảo , Bugis, Tàu Peranakan và các tay buôn Ả Rập ồ ạt đến đảo, tìm cách tránh các hạn chế thương mãi của Hòa Lan. Trong năm đầu họat động , 400 000 đô la Tây Ban Nha là thể thức thương mãi đi ngang qua Singapore . Đến năm 1821, dân số Singapore đạt khỏang 5000 người và thể tích thương mãi là 8 triệu $. Năm 1825 , dân số lên đến 10 000 và thể tích thương mãi là 22 triệu $ . Lúc này, Singapore đã vượt mặt hải cảng Penang thiết lập từ lâu.
Raffles trở lại Singapore năm 1822 và chỉ trích nhiều quyết dịnh của Farquhar , dù Farquhay đã lảnh đạo thành công việc định cư, qua những khó khăn các năm đầu tiên. Chẳng hạn, hầu tạo thêm lợi tức cần thiết , Farquhar đã bán môn bài cho cờ bạc và bán thuốc phiện, Raffles xem đó là các tệ đoan xã hội. Chấn động vì thuộc địa xáo trộn, Raffles sọan thảo ra mộtlọat các chánh sánh mới cho công cuộc định cư. Ông tổ chức Singapore thành các phân chia phụ chức năng và chủng tộc, dưới tên là Kế họach Raffles cho Singapore - the Raffles Plan of Singapore. Ngày nay, cái còn lại của tổ chứcnày vẫn tìm thấy ở các ngọai ô các tộc dân . William Farquhar bị bải nhiệm; sau đó Farquhar chết ở thị trấn Perth tại Tô Cách Lan- Scotland.
Ngày 7 tháng 6 năm 1823 , John Crawfurd ký một hiệp ước thứ hai với tiểu vương hồi giáo và Temenggong, đã nới rộng thuộc địa Anh qua gần khắp đảo . Tiểu vương hồi giáo và Temenggong đã trao đổi đa số quyền hạn hành chánh của đảo , kể luôn cả việc thâu thuế cảng bằng tiền trả lương hàng tháng lâu dài là 1500 $ và 800 $ . Thỏa hiệp này đưa đảo thuộc quyền Luật lệ Anh, với điều khỏan là để tâm tới phong tục, thói quen và tôn giáo Mã Lai . Raffles thay thế Farquhar bằng John Crawfurd , một nhà hành chánh hửu hiệu và căn cơ ở chức vụ thống đốc mới. Tháng10 năm1823, Raffles trở về Anh và không bao giờ còn trở lại Singapore nữa vì ông chết năm 1826 , khi mới 44 tuổi. Năm 1824 , tiểu vương hồi giáo nhượng Singapore vĩnh viễn cho Công ty Đông Ấn Độ.
Singapore Thuộc địa ( 1819- 1969 ):
Các Định Cư ở Eo biển ( 1826 - 1867 )
Tình trạng tiền đồn Singapore thọat tiên , tuồng như bấp bênh, khi chánh phủ Hòa Lan phản kháng Anh là đã vi phạm vùng ảnh hưởng Hòa Lan . Thế nhưng Singapore mau chóng trổi dậy như là một vị trí thương mãi quan trọng và Anh Quốc cũng cố thêm tuyên bố chiếm cứ đảo. Thỏa Hiệp Amnh- Hòa Lan năm 1824 , đóng xi măng tình trạng Singapore là một thuộc địa Anh, phân chia quầnđảo ra là hai giữa hai cường quốc thuộc địa : vùng phía Bắc S826 Singapore thuộc nhóm Công Ty Anh Đông Ấn Độ, cùng Penang và Malacca hình thành Những Định Cư Eo Biển - Straits Settlements do Công Ty Anh Đông Ấn Độ cai quản . Năm 1830, các Định Cư Eo Biển này trở thành một Dinh Thống Đốc ( hay Tòa Khâm sứ )- residency hay một phần phụ của Tổng thống Phủ Bengal ở Ấn Độ Anh.
Những thập niên kế tiếp, Singapore tăng trưởn để trở thành một hải cảng quan trọng trong vùng. Thành công có nhiều lý do , gồm luôn cả việc mở rộng thị trường Hoa Kiều , việc tàu chạy đại dương bằng hơi nước , và việc sản xuất cao su và thiếc ở Malaya . Tình trạng một hải cảng tự do, cống hiến một ưu thế đặc biệt so với các thành phố hải cảng thuộc địa khác như Batavia ( nay là Jakarta ) và Manila nơi thuế cao ; và đã hút dẫn nhiều thương gia Tàu , Mã Lai , Ấn Độ và Ả Rập họat động ở Đông Nam Á đến Singapore. Đến năm 1880 , đã có trên 1.5 triệu tấn hành hóa di ngang qua Singapore mỗi năm , 80 % chuyên chở bằng các tàu chạy hơi nước. Họat động thương mãi chánh là thương mãi kho trữ hàng, phồn thịnh nhờ không thuế khóa và rất ít giới hạn. Rất nhiều nhà buôn ở Singapore là các hảng buôn Âu Châu , nhưng cũng có nhiều thương gia Do Thái, Tàu, Ẩ Rập, Armenian, Hoa Kỳ và Ấn Độ.
Đến năm 1827, Hoa kiều trở thành nhóm tộc dân đông nhất Singapore , Họ gồm có Tàu Peranakan là con cháu kiều dân định cư àu lúc ban đầu và các cu li Tàu ồ ạt đến Singapore cố tránh thóat kinh tế khó khăn miền Nam Trung Hoa lúc đó. Số dân Tàu này càng tăng thêm nhiều với rối lọan Chiến Tranh Nha Phiến Thứ Nhất - First Opium War ( 1839 - 1842 ) và Thứ Hai ( 1856 - 1860 ) gây ra. Nhiều dân Tàu đến Singapore là dân lao động nghèo khổ, theo khế ước. Dân Mã Lai là nhóm đông thứ hai mãi cho đến năm 1860, họat động làm dân đánh cả , tiểu công nghệ và lảnh lương, trong khi vẫn ở phần lớn tại các làng xóm Mã lai - kampungs . Đến năm 1860 , dân Ấn trở thành tộc dân đông thứ hai. Dân Ấn làm lao động không lành nghề , buôn bán, và tội đồ gửi tới làm các dự án công cọng tỉ như dọn sạch rừng hay mở đường . Họ cũng là lính Ấn -Sepoy troops do Anh gửi đến trú đóng Singapore.
Dù tầm quan trọng Singapore tăng lên, hành chánh cai trị đảo rất thiếu nhân viên , không hửu hiệu và không lưu tấm đến lợi ích cho dân chún . Các nhà cai trị thường từ Ấn gửi tới và không quen thuộc văn hóa, ngôn ngữ địa phương. Trong khi dân số t(ng gấp bốn từ 1830 đến 1867, kích thước công chức ở Singapore không thay đổi . Đa số dân gia không hề được các y tế công cọng săn sóc và bệnh như thổ tả - cholera và đậu mùa -smallpox gây ra các vấn đề y tế nặng nề, đặc biệt ở những vùng dân lao động qúa đông đúc . Thành quả của hành chánh không hửu hiệu và phần lớn đàn ông, tạm thời ngự trị và dân chúng vô học, xã hội trở thành không luật lệ và hổn lọan. Năm 1850, Singapore chỉ có 12 sĩ quan cảnh sát cho gần 60 000 người. Mãi dâm, bài bạc và hút sách ( đặc biệt là thuốc phiện ) tràn lan. Các hội kín tội ác Tàu ( tương tự các hội tay ba-triads buôn ma túy ngày nay ) rất uy vũ , và nhiều hội có đến hàng chục ngàn hội viên . Chiến tranh kiểu cá ngựa - turf wars ( ?) giữa các hội đối thủ thỉnh thỏang làm chết hàng trăm người và những cố gắng bài trừ chúng chỉ thành công giới hạn.
Tình trạng tạo ra lo lắng sâu đậm cho dân Âu Châu trên đảo . Năm 1854, Báo chí Tự do Singapore Free Press than phiền là Singapore là “một đảo nhỏ “ đầy cặn bả - dregs “ của dân số Đông Nam Á .
Định Cư Eo Biển Thuộc Địa Vương Miện Anh ( 1867 - 1942 )
Khi Singapore tiếp tục tăng trưởng , khiếm khuyết hành chánh trên các Định Cư Eo Biển -Straits Settlements trở thành nghiêm trọng và cộng đồng buôn bán Singapore bắt đầu xáo động chống lại nền cai trị của Ấn Độ Anh. Chánh phủ Anh Quốc đồng ý thiết lập Các Định Cư Eo Biển như thể là một Thuộc Địa Vương Miện-Crown Colony riêng rẽ, ngày 1 tháng tư 1867. Thuộc địa mới này do một Thống đốc cai quản dưới sự giám sát của Cơ Quan Thuộc Địa tại London Một Ủy Ban điều hành và một Ủy Ban lập pháp giúp đở Thống Đốc. Dù thành viên của các Ủy Ban không phải do dân bầu lên, nhiều đại diện cho dân địa phương hơn, dần dần tăng thêm trải qua nhiều năm tháng.
Chánh phủ thuộc đia thực thi nhiều biện pháp giải quyết những vấn đề xã hội trầm trọng của Singapore. Một nền Bảo hộ Tàu dưới quyền Pickering được thiết lập năm1877 hầu giải quyết những yêu cầu của cộng đồng Tàu , đặc biệt để kiểm sóat các lạm dụng tệ hại nhất cho buôn bán cu li và bảo vệ đàn bà Tàu khỏi bị bắc buộc làm đĩ điếm. Năm 1889, Thống Đốc Huân tước Sir Cecil Clementi Smith bải bỏ các hội kín, khiến chúng phải đì vào vòng bí mật. Tuy nhiên, nhiều vấn đề xã hội vẫn tồn tại cho đến thời kỳ sau chiến tranh , gồm cả một thiếu hụt gia cư , sức khỏe yếu đuối và một mức sống thấp kém. Năm 1906, Đồng ( ? )Minh Hội- Tongmenghui một tổ chức cách mạng quyết lật đổ triều đình nhà Thanh do Tôn Dật Tiên- Sun Yatsen lảnh đạo , thành lập nhánh Nam Dương- Nanyang ở Singapore , trụ sở tổ chức ở Đông Nam Á . Hội viên nhánh này gồm có Bác sĩ Vương ( ? ) Hồng Quế - Wong Hong Kui , các nhà biến chế cao su Chan Cho Nam, Cheung Wing Fook, Chan Po Yin là ba người thành lập nhật báo Chấn Hưng( ? ) - Chong Shing ngày 20 tháng 8 năm 1907 phân phối 1000 tờ mỗi ngày và nhà sách Khai Minh - Kai Ming bookstore . Dân di cư Tàu ở Singapore tặng dữ vô số cho Tongmenghui đã tổ chức Cuộc Cách Mạng Tân Hợi - XinHai Revolution, năm 1911, đưa tới thành lập Cộng Hòa Trung Hoa - Republic of China .
Thế Chiến Thứ Nhất ( 1914 - 1918 ) không ảnh hưởng gì mấy đến Singapore, vì chiến tranh này không lan tràn ở Đông Nam Á . Sự cố đáng kể nhất là cuộc nổi lọan năm 1914 của bính lính - sepoys Ấn Độ Anh theo hồi giáo trấn giữ Singapore, khi có tin đồn là họ phải đi đánh nhau ở Đế Quốc Thổ Nhĩ Kỳ - Ottoman Empire . Sau Thế Chiến, chánh phủ Anh chi tiêu nhiều tài nguyên để xây dựng căn cứ hải quân ở Singapore, cốt để ngăn chặn tham vọng mỗi ngày mỗi mạnh mẽ thêm của Đế Quốc Nhật Bổn. Căn cứ hòan thành năm 1939 với tổng phí cao ngất trời lúc đó là 500 triệu $ . Căn cứ khoe khoang là có một nơi sửa chửa tàu dưới nước - dry dock lớn nhất thế giới , một xưởng đóng tàu nổi- floating dock lớn hàng thứ ba thế giới và kho thùng trữ nhiên liệu, đủ hổ trợ tòan thể hải quân Anh trong 6 tháng. Căn cứ được đại bác 16 ngón ( gần 375 mm ) và những phi đòan không quân Hòang gia Anh, đóng tại căn cứ không quân Tengah Air base, phòng vệ . Nguyên thủ tướng Winston Churchill cũng đề cao đó là “ Pháo Đài Gibraltar miền Đông” . Tiếc thay, đó cũng là một căn cứ hải quân không có hạm đội. Hạm đội Hòang gia Anh đóng ở Âu Châu và dự tính là sẽ di chuyễn mau lẹ tới Singapore khi cần thiết . Tuy nhiên khi Thế Chiến Thứ Hai bùng nổ năm1939 , Hạm đội Anh mắc lo chống giữ Anh Quốc. Trung tướng- Lieutenant General Huân tước Sir William George Shedden Dobbie được cử làm Thống Đốc Singapore và tướng Tổng chỉ huy Quân sĩ MaLaya ngày 8 tháng 11 năm 1935, đóng tại Istana, mãi cho đến khi sắp xảy ra Thế Chiến Thứ Hai năm 1939 .
Trận Chiến Singapore và Nhật Chiếm đóng ( 1942 - 1945 )
Tháng 12 năm 1941, Nhật tấn công Trân Châu Cảng - Pearl Harbor ( bang Hạ Uy Di - Hoa Kỳ ) và bờ biển Miền Đông Malaya, gây ra Cuộc Chiến Tranh Thái Bình Dương. Hai tấn công xảy ra cùng ngày , nhưng vì cách nhau nhiều kinh tuyến nên tấn công Honolulu là ngày 7 tháng 12 , trong khi tấn công Kota Bharu lại là ngày 8 tháng 12 . Một trong những mục tiêu Nhật là chiếm cứ Đông Nam Á và bảo đảm nguồn cung cấp tài nguyên thiên nhiên giàu có hầu nuôi nấng quân đội và nhu cầu nền công nghệ Nhật. Singapore, căn cứ chánh của Đồng Minh trong vùng, lẽ đương nhiên là một mục tiêu quân sự, vì thương mãi phồn thịnh và dân chúng giàu sang. Các chỉ huy quân sự Anh ở Singapore đã tin tưởng rằng tấn công Nhật sẽ đến từ biển phia Nam, vì rừng rậm Malaya phía Bắc sẽ làm ra một rào cản thiên nhiên chống lại xâm lăng. Dù họ đã vẻ ra một kế họach chống trả tấn công từ phía Bắc Malaya, các sửa sọan chưa bao giờ hòan tất cả. Giới quân sự tin cậy là “ Pháo Đài Singapore” sẽ chống lại được bất cứ một tấn công Nhật nào và niềm tin này càng vững mạnh thêm khi được Lực lượng Z đến nơi . Lực lượng này gồm chiến hạm Prince of Wales và tuần dương hạm - cruiser Repulse . Tóan tàu chíến này sẽ còn thêm hàng không mẩu hạm - aircraft carrier Indomitable, nhưng hàng không mẩu hạm này bị ngừng dọc đường , khiến tóan tàu chiến không có phi cơ bảo vệ .
Ngày 8 tháng 12 năm 1941 , các lực lượng Nhật đổ bộ lên Kota Bahru , ở miền Bắc Malaya. Chỉ 2 ngày sau khi khởi sự xâm chiếm Malaya, hai chiến hạm Prince of Wales và Repulse bị đánh chìm ở ngòai khơi, cách bờ biển Kuantan tại Pahang 50 dặm Anh (hơn 80 km ) do các máy bay thả bom và phóng thủy lôi lực lượng Nhật, một thất trận hải quân Anh tệ hại nhất Thế Chiến Thứ Hai. Hổ trợ không quân Đồng Minh không tới kịp đúng giờ, để bảo vệ hai tàu chiến chánh yếu này . Sau sự cố , Singapore và Malaya bị oanh kích hằng ngày , kể cả các mục tiêu cơ cấu dân sự như bệnh viện, tiệm buôn bán. làm chết cả chục - cả trăm người mỗi lần.
Quân đội Nhật tiến mau lẹ đến phía Nam ngang qua Bán đảo Mã Lai, đè bẹp hay tắt rẽ khỏi kháng cự Đồng Minh . Các lực luợng Đồng Minh không có xe tăng , vì họ cho là không thích hợp với rừng rậm nhiệt đới và bộ binh Đồng Minh đã tỏ ra không có sức lực chống lại các xe tăng nhẹ của Nhật. Khi việc chống cự tiến binh Nhật thất bại, các lực lượng Đồng Minh bị bó buộc rút lui về phía Nam, hướng Singapore. Ngày 31 tháng giêng 1942, chỉ 55 ngày sau khởi đầu cuộc xâm chiếm, Nhật đã chiếm cứ hòan tòan Bán đảo Mã Lai và sẳn sàng đánh Singapore.
Đường đắp cao qua đầm lầy , nối liền Johor và Singapore, bị các lực lượng Đồng Minh phá hủy , hy vọng chận đứng quân đội Nhật . Tuy nhiên, quân Nhật đã vượt qua Eo Biển Johor bằng các tàu bơm phồng - inflatable boats, những ngày sau. Nhiều chiến đấu xảy ra giữa các lực lượng Đồng Minh và các tình nguyện dân cư Singapore, chống quân Nhật tiến binh , tỉ như Trận chiến - Battle Pasir Panjang . Tuy nhiên, khi đa số phòng vệ bí dánh nát tan và cung cấp tiêu hao hết, lực lượng Đồng Minh Trung tướng Arthur Percival đầu hàng Tướng Nhật Tomoyuki Yamashita của quân đội Thiên Hòang vào ngày đầu năm âm lịch, 15 tháng hai 1942. Khỏang 130 000 lính Ấn Độ, Úc và Anh trở thành tù binh chiến tranh. Nhiều người sau đó được chở tới Miến Điện, Nhật , Đại Hàn hay Mãn Châu làm lao động nô lệ bằng các “tàu địa ngục - hell ships” . Sụp đổ Singapore là cuộc đầu hàng các lực lượng Anh dẫn đạo lớn nhất trong lịch sử , Báo chí Nhật huênh hoang tuyên bố thắng trận này là quyết định cho tình trạng tổng quát chiến tranh .
Nhật đổi tên Singapore thành Syonan-to hay Ánh sáng đảo Nam - Light of South Island, Nhật chiếm đóng từ năm 1942 đến năm 1945 , Quân đội Nhật áp dụng nhiều biện pháp hà khắc chống lại dân địa phương, đặc biệt là hiến binh Nhật - Kempetai rất tàn nhẫn với dân Tàu . Tàn bạo khủng khiếp nhất là tàn sát dân sự Tàu Sook Ching, trả thù chống lại cố gắng dân Tàu giúp chiến đấu ở nguyên quán Trung Hoa . Xử tử khỏang từ 25000 đến 50 000 người ở Malaya và Singapore . Dân số còn lại khổ sở trăm điều, suốt ba năm rưỡì Nhật chiếm đóng. Dân Mã Lai và Ấn Độ bị bắt buộc xây dựng “ Đường Sắt tử thần - Death Railway” ( không phải thi vị hóa như trong phim Cầu sông Kwai ? với tù binh Anh ), giữa Thái Lan và Miến Điện. Đa số dân lao động nô lệ chết, khi làm đường xe lữa. Dân Âu ( Tây ) lai cũng bị bắt làm tù binh.
Thời Hậu Chiến 1945 - 1955
Sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh ngày 15 tháng 8 năm 1945 , Singapore rơi vào tình trạng vô danh - anomie một thời gian ngắn ; cướp bóc và giết trả thù tràn lan . Binh lính Anh do Công tước Lord Louis Mountbatten, tổng chỉ huy Đồng Minh cho Đông Nam Á, trở lại Singapore để đón nhận lực lượng Nhật trong vùng đầu hàng chánh thức từ Tướng Itagaki Seishiro, dưới danh nghĩa của Tướng Hisaichi Terauchi ngày 12 tháng 9 năm 1945 ,và một Nền Hành chánh Quân sự Anh thành lập để cai trị đảo cho đến tháng 3 năm 1946. Đa số hạ tầng cơ sở đã bị phá hủy trong thời gian chiến tranh gồm các hệ thống điện và cung cấp nước sạch, các dịch vụ điên thọai, cũng như các tiện nghi cảng ở Hải Cảng Singapore. Thiếu thốn thực phẩm đem tới thiếu dinh dưỡng, bệnh tật và tội ác và hung bạo, không kiềm chế nổi. Giá thực phẩm cao, thất nghiệp và nhân công bất mãn, đạt đỉnh cao biến thành một lọat đình công năm 1947, gây ra ngưng đọng khối lượng cho chuyên chở công cọng và các dịch vụ khác. Đến cuối năm 1947, nền kinh tế bắt đầu phục hồi, nhờ yêu cầu tăng mạnh của thiếc và cao su khắp thế giới, nhưng phải cần nhiều năm nền kinh tế mới trở lại được các mức độ tiền chiến.
Thất bại của Anh Quốc bảo vệ Singapore đã phá tan niềm tin tưởng vào các nhà cai trị không bao giờ thua trận, trước mắt dân Singapore. Những thập niên sau thế chiến đã hiện ra một thức dậy chánh trị ở quần chúng địa phương và nổi dậy những cảm tình chống thuộc địa và yêu nước , lược thuật trong khẩu hiệu “ Độc Lập - Merdeka” theo tiếng Mã Lai. Dân Anh, cũng đã sửa sọan tăng dần tự cai trị -self governance cho Singapore và Malaya. Ngày 1 tháng 4 năm 1946, các Định Cư Eo Biển bị giải tán và Singapore trở thành một Thuộc Địa Vương Miện - Crown Colony, có một nền Hành Chánh dân sự do một Thống Đốc lảnh đạo, Tháng 7 năm 1947, các Ủy Ban Điều Hành và Lập Pháp được thiết lập và việc bầu lên 6 hội viên của Ủy Ban Lập Pháp được dự trù cho năm tới.
Ủy Ban Lập Pháp đầu tiên (1948- 1951 )
Bầu cử lần đầu tiên ở Singapore, tháng 3 năm1948, giới hạn cho 6 ghế sẽ phải bầu trong số 25 ghế tại Ủy Ban Lập Pháp. Chỉ có công dân Anh mới được quyền bỏ phiếu và chỉ 23 000 hay 10 % số này ghi tên đi bầu. Các hội viên khác của Ủy Ban do Thống Đốc hay các phòng thương mãi lựa chọn . 3 trong số ghế đắc cử, thuộc đảng mới thành lập là Đảng tiến bộ Singapore Progressive Party - SSP, một đảng bảo thủ các lảnh tụ là doanh gia và chuyên nghiệp, ít muốn tự cai trị ngay. 3 ghế khác thuộc các đắc cử độc lập.
3 tháng sau bầu cử, một cuộc nổi lọan do các nhóm cọng sản ở Malaya “ Khẩn Cấp Malaya” , bùng nổ . Anh áp đặt các biện pháp cứng rắn để kiểm soát các nhóm thiên tả, cả ở Singapore lẫn Malaya, và ban hành Đạo Luật Nội An - Internal Security Act , rất tranh cải cho phép bắt giữ vô thời hạn không xét xử những ai bị tình nghi là “ đe dọa cho an ninh”. Vì rằng các nhóm thiên tả là những nhà chỉ trích mạnh mẽ hệ thống thuộc địa, tiến bộ cho chánh quyền tự trị bị ngưng trệ nhiều năm.
Ủy Ban Lập Pháp thứ hai ( 1951 - 1955 )
Bầu cử Ủy Ban Lâp Pháp thứ hai năm 1951 , số ghế phải bầu tăng lên đến 9 ghế . SPP môt lần nữa thắng cử, chíếm 6 ghế. Dù cho vụ này giúp hình thành một chánh phủ địa phương đặcbiệt cho Singapore , hành chánh thuộc địa vẫn còn chủ trì. năm 1953. khicọng sản ở Malaya đã bị bài trừ, và tệ hại Khẩn Cấp đã kết liễu, một Ủy Ban Anh do huân tước Sir George Rendel lảnh đạo , đề nghị một hình thức chánh phủ tự trị cho Singapore . Một Quốc Hội Lập Pháp mới có 25 ghế phải bầu trong tổng số 32 ghế sẽ thay thế Ủy Ban Lập Pháp . Quốc Hội sẽ lựa chọn một thủ tướng -Chief Minister và Hội đồng Tổng trưởng, Nội các- Cabinet. Anh vẫn giữ các bộ khác như nội an và ngọai giao , cũng như quyền hạn phủ quyết - veto trên lập pháp.
Bầu Quốc Hội Lập Pháp thực hiện ngày 2 tháng 4 năm 1955 là một sự việc tranh dành gần gủi và sống động , nhiều đảng phái mới tham gia . Khác những bầu cử trước, các người đi bầu được ghi danh tự động , tăng số người đi bầu lên đến khoảng 300 000 người. SPP thất cử rỏ rệt, chỉ chiếm đựoc 4 ghế . Mặt Trận Lao Động - Labour Front khuynh tả mới thành lập thắng cử vẽ vang chiếm 10 ghế và thành lập một chánh phủ liên hiệp với Liên minh - UMNO-MCA Alliance chiếm 3 ghế. Một đảng mới Đảng Hành Động Nhân Dân - People ‘s Action Party , PAP ra đời, cũng chiếm 3 ghế .
Chánh Phủ Tự trị ( 1955 - 1963 )
Chánh phủ nội bộ tự trị bán phần( 1955-1959)
David Marshall, lảnh tụ Mặt trận Lao Động , trở thành thủ tướng , tổng trưởng chánh - Chief Minister của Singapore. Ông chủ tọa một chánh phủ bấp bênh , rất ít hợp tác với Chánh quyền thuộc địa hay các đảng phái địa phương. Xáo trộn xã hộI tăng gia và tháng 5 năm 1955 xảy ra nổi lọan xe búyt Hock Lee bus riots , giết chết 4 người và làm chánh quyền Marshall mất uy tín nặng nề. Năm1956, nổi lọan Trường Trung Học Tàu bùng nổ, càng làm cho căng thẳng thêm lên, giữa chánh quyền địa phương và các học sinh trung học Tàu và các nghiêp đòan được xem là có cảm tình với Cọng sản .
Tháng tư năm 1956, Marshall hướng dẫn một phái đòan đến London để điều đình một nền tự trị hòan tòan ở Thảo Luận Merdeka Talks, nhưng đàm phán thất bại khi Anh Quốc ngần ngại bỏ quyền nội an kiểm sóat Singapore. Anh Quốc lo ngại về ảnh hưởng cọng sản và các đình công lao động phá hại ngầm ổn định kinh tế Singapore , cảm giác là chánh quyền địa phương không hửu hiệu, khi dàn xếp các cuộc nổi lọan trước đó. Marshall từ chức tiếp theo thảo luận thất bại.
Tổng trưởng Chánh - Chief Minister mới Lim Yew Hock, tung ra một trừng phạt gay gất cọng sản và các nhóm tả phái , bỏ tù nhiều lảnh tụ nghiệp đòan và nhiều đảng viên thân cọng của PAP , chiếu theo Đạo Luật Nội An . Chánh phủ Anh Quốc chấp thuận đường lối cứng rắn của Lim chống lại các tay xúc động cọng sản và ở một phiên thảo luận mới được triệu tập tháng 3 năm 1957, Anh thỏa thuận cấp quyền tự trị nội địa hòan tòan - complete internal self - government. Một quốc gia Singapore sẽ được tạo dựng với chính ngay các công dân mình . Quốc Hội Lập Pháp sẽ được nới rộng đến 51 ghế, hết thảy phải đựơc bầu lên và Thủ tướng - Prime Minister và Nội Các sẽ kiểm sóat mọi khía canh chánh quyền, ngoại trừ quốc phòng và ngoại giao. Tổng trấn cũng bị Chủ tích nước Yang di - Pertuan Negara thay thế .Tháng 8 năm 1958 , Đạo luật Quốc gia Singapore - State of Singapore Act đuợc Quốc Hội Vương Quốc Anh thông qua, thiết lập Quốc Gia Singapore.
Chánh phủ tự trị nội địa hòan tòan ( 1959- 1963 )
Bầu cử Quốc Hội Lập Pháp mới tổ chức tháng 5 năm1959 . PAP tòan thắng rộng rải, chiếm 43 trong tổng số 51 gh . PAP thực hiện thắng lợi này, bằng cách vuốt ve đa số dân nói tiếng Tàu, đặc biệt những người trong các nghiệp đòan và các tổ chức sinh viên cấp tiến. Lảnh tụ là Lý Quang Diệu - Lee Kuan Yew, một luật sư trẻ tuổi tốt nghiệp Đại học Cambridge, trở thành Thủ tướng Singapore .
Thắng cử thọat tiên bị các lảnh tụ doanh nghiêp ngọai quốc và địa phương nhìn hỏang sợ vì khá nhiều thành viên đảng thân cọng . Rất nhiều doanh thương mau lẹ dời trụ sở Singapore đến Kuala Lumpur. Dù những điềm xấu này, Chánh quyền PAP thực thi một chương trình vạm vỡ, hầu giải quyết các vấn đề kinh tế và xã hội Singapore . Phát triễn kinh tế do Tổng trưởng Tài chánh mới Goh Keng Swee điều khiển, chiến lược là khuyến khích đầu tư ngọai quốc và địa phương cùng những biện pháp từ các khích lệ thuế khóa đến việc thiết lập các khu công nghệ to lớn ở Jurong. Hệ thống giáo dục được tu chính để huấn luyện một lực lượng lao động lành nghề và tiếng Anh đề xướng lên trên ngôn ngữ Tàu, như thể là một ngôn ngữ giáo dục . Để lọai trừ bất ổn lao động, các nghiệp đòan lao động hiện hửu được củng cố lại , đôi khi bó buộc , thành một tổ chức dù che duy nhất, tên là Đại hội Nghiệp đòan Thương Mãi Quốc gia - National Trades Union Congress , NTUC , chánh phủ giám sát mạnh mẽ. Trên trận tuyến xã hội, một chương trình gia cư công cộng tài trợ tốt đẹp, được phóng ra để giải quyết vấn đề gia cư có từ lâu ngày. Hơn 25 000 căn hộ cao tầng và gía rẽ đã được xây cất trong 2 năm đầu chương trình.
Chiến dịch cho hợp nhất
Dù các thành công cai trị Singapore, các lảnh tụ PAP kể cả Lee và Goh , tin tưởng là tương lai Singapore nằm trong Malaya . Họ cảm tưởng là các mối thắt chặc lịch sử và kinh tế giữa Singapore và Malaya quá mạnh để cả 2 nước tiếp tục là những quốc gia riêng biệt. Hơn nữa , Singapore thiếu thốn tài nguyên thiên nhiên và phải đối diện cả ở khu dự trữ hàng hóa thương mãi đang suy thóai lẫn tăng gia dân số, đòi hỏi phải có công ăn việc làm. Họ nghĩ rằng hợp nhất sẽ có lợi cho nền kinh tế, bằng cách tạo dựng một thị trường chung, bải bỏ thuế thương mãi và như thế hổ trợ những công nghệ mới giải quyết những đau xót thất nghiệp đang xảy ra .
Dù lảnh đạo PAP vận động mạnh mẽ cho một hợp nhất , cánh thân cọng đáng kể của PAP chống đối mạnh hợp nhất, lo ngại mất ảnh hưởng khi đảng cai trị Malaya, là Tổ chức Quốc gia Malay Thống nhất - United Malays National Organisation- UMNO , rất chống Cọng và sẽ hổ trợ các phe phái PAP không Cọng sản chống lại họ. Các lảnh tụ UMNO rất nghi ngờ ý kiến hợp nhất, vì họ không tin cậy chánh quyền PAP và lo ngại là dân Tàu đông đúc ở Singapore sẽ làm nghiêng cán cân chủng tộc, căn bản cho quyền lực chánh trị của họ. Vấn đề trở thành cơn đau đầu năm1961, khi tổng trưởng PAP thân cọng là Ong Eng Guan đào ngũ và đánh bại một ứng cử PAP ở một cuộc bầu cử thứ yếu , một di chuyễn đe dọa làm rơi rụng Chánh phủ Lee .
Đối đầu viễn cảnh các nhà thân cọng chiếm đọat đảng, UMNO thay đổi thái độ về hợp nhất. Ngày 27 tháng 5 năm1961, thủ tướng Malaya Tunku Abdul Rahman xem xét ý kiến lập một Liên bang Mã Lai Á - Federation of Malaysia , gồm có Liên bang Malaya hiện hửu, Singapore , Brunei và các lảnh thổ Borneo Anh Sabah và Sarawak . Các lảnh tụ UMNO tin rằng thêm vào dân Malay của các lảnh thổ Borneo ,sẽ bù chì sỉ số dân Tàu Singapore. Chánh phủ Anh phần mình, tin rằng hợp nhất sẽ ngăn ngừa Singapore trở thành một nơi ẩn náu cho chủ nghĩa cọng sản .
Ngày 9 tháng 7 năm 1963 , các lảnh đạo Singapore, Malaya, Sabah và Sarawak ký kết Thỏa Hiệp Malaysia, thiết lập Liên Bang Malaysia - Mã Lai Á .
Singapore ở Mã Lai Á ( 1963 - 1965 )
Hợp nhất
Ngày 16 tháng năm 1963 , Malaya , Singapore , Bắc Borneo , và Sarawak hợp nhất , làm ra Mã Lai Á - Malaysia . Hợp nhất tỏ ra khập khểnh lúc ban đầu . Trong các cuộc bầu cử ở Singapore, năm1963, nhánh địa phương của UMNO tham gia bầu cử, dù ở một thỏa hiệp trước đó, UMNO đã thỏa thuận với PAP không tham gia chánh trị xứ sở trong những năm đầu hình thành Malaysia . Dù UMNO thất bại mọi nơi, liên hệ giữa PAP và UMNO tệ hại đi . PAP, ăn miếng trả miếng, thách thức các ứng cử UMNO ở bầu cử liên bang 1964 như thể là thành phần của Công Ước Đoàn kết Mã lai Á - Malaysian Solidarity Convention, chiếm một ghế ở Quốc Hội Ma Lai Á .
Căng thẳng chủng tộc
Căng thẳng chủng tộc tăng thêm khi dân Tàu ở Singapore khinh khi bị kỳ thị ở hành động tán thành-affirmative action của các chánh sách liên bang, cấp nhiều ân huệ đặc biệt cho dân Mã Lai bảo đảm theo điều khoản 153 Hiến Pháp Malaysia . Còn có thêm những lợi ích tài chánh và kinh tế đặc biệt cho dân Mã Lai . Lý Quang Diệu và các lảnh tụ chánh trị khác bắt đầu đề xướng cho một cách đối xử đúng lẽ phải và bình đẳng cho mọi chủng tộc ở Mã Lai Á , với khẩu hiệu tập hợp “Malaysian Malaysia - Mã Lai Á cho dân Mã Lai Á “
Trong khi đó , dân Malay ở Singapore mỗi ngày càng bị kích thích thêm với những tố cáo chánh phủ liên bang là PAP bạc đải dân Malay . Tình trạng chánh trị bên ngòai cũng rất căng thẳng . Tổng thống Sukarno của Inđônêxia tuyên bố một tình huống “Đối mặt Konfrontasi - confrontation” chống lại Malaysia và khởi sự những hành động quân sự và hành động khác chống lại quốc gia mới, kẻ cả ném bom tiệm MacDonald ở Singapore , ngày 10 tháng 3 năm 1965, với quân biệt kích, giết chết 3 người . Inđônêxia cũng làm những họat động xúi dục nổi lọan khiêu khích dần Malay chống lại dân Tàu. Rất nhiều bạo động chủng tộc là thành quả và lệnh giới thường được ban bố hầu tái lập trật tự. Nổi lọan đáng chú ý nhât là Nổi loạn Chủng tộc - Race Riots vào ngày sinh nhật của Tiên tri - Prophet Muhammad ngày 21 tháng7 , làm chết 23 người và hàng trăm bị thương. Khi bất ổn xảy ra, giá thực phẩm lên cao tận trời xanh khi hệ thốngchuyên chở gián đọan , làm đời sống dân chúng cơ cực thêm.
Các chánh phủ xứ và klên bang cũng tranh chấp nhau trên trận tuyến kinh tế. Các lảnh tụ UMNO lo ngại sự chủ trì kinh tế của Singapore , sẽ mặc nhiên thay đổi quyền lực chánh trị ra khỏi tay Kuala Lumpur. Dù có thỏa hiệp trước đó thiết lập một thị trường chung, Singapore vẫn tiếp tục đối diện giới hạn khì làm thương mãi với phần Malaya còn lại . để trả đủa , Singapore từ chối không cung cấp cho Sabah và Sarawak tòan thể các tiền vay nợ đã thỏa thuận làm phát triễn kinh tế hai xứ miền Đông này. Chi nhánh Ngân Hàng Trung Hoa bị Chánh Phủ Trung Ươngở Kuala Lumpur đóng cửa , vì bị nghi là tài trợ cho cọng sản. Tình trạng leo thang đến nổi đàm phán giữa UMNO và PAP tan vỡ ; diễn thuyết và diễn văn tàn tệ đầy rẫy cả hai phe . Các tay quá khích UMNO kêu gọi bắt giữ Lý Quang Diệu .
Chia lìà- rời bỏ
Không thấy lựa chọn nào khác để tránh thêm đổ máu, thủ tướng Mã Lai Á Tunku Abdul Rahman quyết định đuổi Singapore ra khỏi liên bang. Goh Keng Swee , đã trở thành nghi ngờ các lợi ích kinh tế hợp nhất , thuyết phục Lý Quang Diệu là rời bỏ- chia lìa nên thi hành . Các đại diện UNMO và PAP họat động hết sức bí mật , làm ra các từ ngữ chia lìa - separation, hầu đặt đặc biệt cho Chánh phủ A nh trước sự đã rồi - fait accompli .
Sáng ngày 9 tháng 8 năm1965, Quốc Hội Malaysia bỏ phiếu 126 trên số zêrô, tu chỉnh Hiến Pháp đuổi Singapore ra khỏi liên bang . Vài giờ sau , Quốc Hội Singapore thông qua Đạo Luật Cộng hòa Singapore Độc lập-Republic of Singapore Independence Act , thiết lập Đảo thành một cọng hòa độc lập, quyền hạn tối cao . Lý Quang Diệu, mắt đẩm lệ, tuyên bố trong môt phiên họp báo ti vi là Singapore đã trở thành một quốc gia quyền hạn tối cao và độc lập . Ông nói “ đối với tôi đây là một thời gian đau xót . Cả đơi tôi , tôi đã tin tưởng vào hợp nhất và thống nhất hai lảnh thổ”. Quốc gia mới có tên là Cộng Hoà Singapore và Yusof Ishak được bổ nhiệm làm tổng thống đầu tiên .
Kỳ tới : Cộng hòa Singapore ( 1965 đến nay) và kinh tế Singapore)