2/4/2015
I - Thu thập các tế bào T để chửa trị ung thư phổi ( Ky/ thuât sinh học - biotechnology )
Công chức xã hội sống ở ngọai ô thành phố Pittsburgh, năm 2007 lần đầu tiên Kaye Peterson thấy mình bị ho hòai không dứt. Cô mới 27 tuổi, không bao giờ hút thuốc và ngòai ho ra thấy mình khỏe mạnh . Cô nói rằng kể đến cả 100 ngàn triệu năm, cô không nghĩ rằng đó là ung thư. Các bác sĩ cũng nghĩ như vậy: họ đã mất 4 năm để chẩn đóan bệnh đứng đắn, nhưng lúc đó ung thư phổi ở Peterson đã lan tràn. Chẩn đóan bệnh thật là tàn khốc : chỉ 1% ai chẩn đóan ung thư phổi ở giai đọan IV , chỉ sống nhiều nhất là 5 năm nữa thôi . Tháng 11 năm 2014, Peterson bắt đầu được chửa trị bằng một lọai thuốc tây khác tên gọi là những phép chửa trị miễn nhiễm - immunotherapies. Các thuốc này không nhắm trực tiếp ung thư. Thay vào đó, chúng giúp hệ thống miễn nhiễm thân thể chống trả các u ung thư - tumors , thường bằng cách tấn công các protêins ngụy trang từ các tế bào T. Hòai vọng lớn lao quanh các phép chửa trị miễn nhiễm đã làm nẩy lữa những thương thảo ở ngành công nghệ dược phẩm. Ngày 29 tháng chạp năm 2014 , một báo cáo của Leerink Partners, một tiệm ngân hàng đầu tư chuyên môn về săn sóc y tế , ước lượng là mức bán sẽ đạt đỉnh là 40 tỉ đô la Mỹ một năm. Hảng Pfizers đấu thầu 117 tỉ $ để mua AstraZenaca một phần do ham muốn chiếm được MED4736, một thuốc chửa ung thư phổi đang ở thử nghiệm giai đọan III. Tháng 5 năm 2014, Astra chối từ nên Pfizer đã thảo luận xong mua thuốc chửa trị miễn nhiễm của hảng Merck KGaA trị giá 2 tỉ $, đang thử nghiệm chống một ung thư da hiếm có. Đến nay chỉ có 3 chửa trị miễn nhiễm được chấp thuận ở Hoa Kỳ, cả ba cho bệnh u hắc tố- melanoma cấp cao.
Cả 3 thuốc này : Yervoy và Opdivo của Bristol -Myers Squibb và Keytruda của Merck & Co. , đều cũng đựợc thử trên các ung thư khác. Thử nghiệm lâm sàng trên Peterson phối hợp hai thuốc chửa trị.
Theo Cơ Quan Y tế Quốc tế - WHO, ung thư phổi mỗi năm giết chết 1.6 triệu người tòan cầu năm 2012 , nhiều hơn cả các ung thư gan và dạ dày - bao tử , là hai lọai ung thư kế tiếp phối hợp lại làm chết chóc nhiều hơn hết. Tỉ xuất chết chóc cao khiến cho các nhà khoa học gọi là phép chữa trị hư vô chủ nghĩa - nihilism. Theo Joan Schiller, chủ tịch khoa ung thư ởTrung tâm Y khoa Tây Nam , Viện đại học Texas tại Dallas: Mọi nhà ung thư học đều đã khuyên các bệnh nhân bị ung thư phổi là về nhà đi, thu xếp cho xong mọi chuyện.” Vì lẽ rất nhiều người tin rằng bệnh là tự mình làm ra, ung thư phổi nhận được ít tài trợ khảo cứu hơn là các ung thư khác. Các Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ cấp cho khảo cứu ung thư phổi 885 triệu đô la từ năm 2010 đến năm 2013 nghĩa là còn ít hơn ⅓ tài trợ cho ung thư vú.
Chửa trị ung thư phổi hửu hiệu nhất là giải phẩu - surgery , nhưng chỉ là một lựa chọn
khi bệnh mới phát giác. Ở những giai đọan sau, chửa trị hy vọng nhất là các thử nghiệm di truyền tiết lộ các u ung thư bệnh có thể chửa trị bằng thuốc nhắm mục tiêu về các dị thường ở các tế bào đặc thù. Tuy nhiên các thuốc này chỉ hửu hiệu trên ⅓ bệnh nhân ung thư phổi. Và mức hửu hiệu lại giảm dần theo thời gian, theo lời David Gilligan, nhà ung thư học Anh và là một thành viên của Cơ quan Ung Thư Phổi Roy Castle. Gilligan nói: Các phép chửa trị miễn nhiễm là một tiến bộ chánh ,dù ông cũng lưu ý rằng thuốc còn qúa mới, cho nên không một ai biết là chúng hiệu quả thế nào trong dài hạn. Trong khi Peterson chờ đợi nhìn thấy thành quả của chế độ trị liệu gần đây nhất, cô dùng thời gian trò chuyện với bạn bè và gia đình và cố gắng không nghĩ tới tương lai. Cô nói: “ nếu tôi tụ điểm vào đó, tôi sẽ không còn khả năng thích thú với cái ngữ tôi hiện có và không còn thì giờ hàn huyên với những ai tôi chú trọng. Tôi biết rỏ là hậu quả sẽ ra sao rồi” .
II- Phép chửa trị miễn nhiểm chống ung thư là gì đây?
Cơ quan thực phẩm và dược phẩm FDA Hoa kỳ mới đây đã áp dụng thủ tục mau lẹ chấp thuận - fast tracked approval 4 thuốc mới chửa trị miễn nghiễm chống ung thư, tên gọi là Ức chế PD -1 inhibitors, vẽ ra để giúp các tế bào máu trắng đuổi bắt và lọai bỏ hẳn các u ung thư khó trị, một cách vĩnh viễn. Theo Jonathan Cheng, giám đốc điều hành phát triễn lâm sàng ung thư học tại Merck, hứa hẹn của phép chửa trị miễn nhiễm là bạn huyấn luyện hệ thống miễn nhiễm tấn công một cái gì ngoại, cho nên bạn có thể duy trì họat động này rất lâu, hy vọng là suốt đời sống còn lại của bệnh nhân. Gồm 4 cách :
1- Các chống giữ - defenders .
Đó là nhiệm vụ của các tế bào T để bảo vệ thân thể. Khi đứng trước những mảnh protêin ngọai từ các xâm lăng ,chúng họat động hóa và phá hủy các tế bào bị lây nhiễm
2- Các điểm kiểm sóat
Hầu ngăn ngừa một phản ứng miễn nhiễm không kiểm soát , các tế bào T mang theo một nút : một protêin bề mặt tên gọi là chất nhận - receptor protêin chết 1 protein death - PD1 . Khi giao chiến, nó ức chế không cho các tế bào T sinh sôi nẩy nở.
3 - Các ức chế
Các u ung thư biểu hiện quá đáng các mối nối - ligands lập trình cái chết ,cài vào PD-1 như thể chìa khóa trong ổ khóa, cơ bản là làm tắt đi các tế bào T.
4- Các chận đứng - blockers
Những thuốc mới, tỉ như Keytruda của Merck, dính chặc với PD-1 và chận đứng đường vào của các tế bào ung thư. Hệ thống miễn nhiễm giải tỏa ra thêm những tế bào T, rồi chúng sẽ tìm kiếm và tấn công u ung thư.
III- Tái tạo Voi Khổng lồ Mamút lông xù - Woolly Mammoth
a- Tái sinh những lòai vật xưa cỗ để khỏi mất truyền (tuyệt chủng)?
Năm 1980, George Poinar, cựu giáo sư côn trùng học của Viện đại học UC Berkeley , nay là giáo sư danh dự viện đại học bang Oregon, Hoa Kỳ, cùng bạn đồng nghiệp Roberta Hess sau đó là vợ ông, một chuyên viên kính hiển vi điện tử - electron microscopic, khám phá ra những nhân - nuclei còn nguyên vẹn một con ruồi cái sống cách đây 40 triệu năm trong hổ phách - amber . Năm 1983, phản ứng dây chuyền polymerase chain reaction - PCR ( chúng tôi đã đề cập ở tạp chí Khoa học Phổ thông nước nhà ) được phát triễn hầu sao chép những mảnh DNA . Năm 1984, Allan Wilson và Russ Higuchi làm tinh dòng - clone những mảnh gene của bộ da sống còn lông của ngựa vằn - quagga pelt đã tuyệt chủng, chứng mình là DNA trong các mô không còn sống, có thể sinh sản lại được . Năm 1987, máy PCR thương mãi đầu tiên, giúp các nhà sinh học rút ra những gen bé tí xíu từ các mẩu mô tế bào - tissue samples . Năm 1992 , Hendrik và George Poinard báo cáo một phương pháp mới làm nứt đông lạnh -freeze fracture trích chiết DNA cổ xưa từ hổ phách. Năm 1993 ,hai cha con Poinars và Rául Cano dùng PCR để làm DNA từ con sâu bọ đã sống cách đây 120 triệu Nam . Phim “ Công viên -Jurassic Park được giải tỏa. Năm 1996, cừu Dolly cống hiến một chứng cớ là các động vật có thể làm tinh dòng bằng cách chuyễn giao nhân các tế bào thân thể - somatic cells . Năm 2000, Hendrick Poinar đồng tác giả “ tiêu chuẩn vàng kim- gold criteria “ để bảo đảm làm trình tự - sequencing DNA xưa cổ thóai hóa. Năm 2003, tái sinh khỏi tuyệt chủng - de extinction đầu tiên dê rừng núi Pyrénées - Pyrenean ibex. Nhưng thành quả mãi đến 2009 mới công bố. Năm 2005, thế hệ gen kế tiếp - next gen thương mãi đầu tiên của hệ thống làm trình tự được giải tỏa. Năm 2006, Hendrick Poinar xử dụng trình tự gen -kế tiếp để lập trình bán phần hệ gen voi khổng lồ mamút hóa thạch. Năm 2010, Savante Paabo xuất bản dự thảo lập trình hệ gen người Neandertal. Năm 2011, nhóm Úc Châu tạo ra một phôi của ếch đã tuyệt chủng, nuôi con ở dạ dày- extinct gastric brooding frog . Năm 2012 , Cơ quan bất vụ lợi Sống lại & Phục Hồi - Revive & Restore được thành lập để tăng cường theo đa lọai sinh học - biodiversity, bằng cách làm sống lại các lòai vật bị hiểm nguy và tuyệt chủng. Năm 2014, George Church dùng các kỷ thuật bắt đầu làm biến đổi hệ gen của voi Á châu cho giống hệ gen voi khổng lồ biên tập hệ gen - genome editing mamút lông xù. Năm 2015, Hendrick Poinar dự tính xuất bản hệ gen gan hòan tòan nhất của mamút lông xù .
b- Hai cách làm ra voi mamút lông xù
1b- Khởi đầu với một nhân có thể sống được . Làm tinh dòng với chuyễn giao nhân tế bào thân thể. Cách này cần may mắn tìm ra tế bào mamút có nhân có thể sống được - viable nucleus . 1 : Trích một trứng từ voi Á Châu tặng dữ, rồi trao đổi nhân, từ một tế bào mamút . 2: làm sốc điện trứng để khích lệ phân bào - cell division , tạo ra một phôi - embryo . 3: Cấy phôi vào tử cung của một voi mẹ thay thế. 4: Sau khi mang thai, voi mẹ Á Châu sinh con từ một mamút bê bê ( bé em ) tinh dòng.
2b - Khởi đầu bằng hệ gen mamút . Xây dựng một Voi lai- hybrid với công nghệ hệ gen - genome engineering . 1: Nuôi trồng những tế bào Voi Á Châu. 2 : Sửa đổi hệ gen chúng để thay thế các genes mamút đã giúp tính kháng lạnh bằng các dụng cụ làm công nghệ hệ gen . 3: Chuyễn hóa các tế bào gốc sửa đổi thành các tế bào mầm -germ cells , sẽ làm hình thành tinh trùng và trứng voi sửa đổi , 4: cho thụ tinh trứng voi sửa đổi với tinh trùng voi sửa đổi, tạo ra phôi của một ma mút lai. 5: Cấy phôi lai vào tử cung của voi mẹ thay thế. Voi mẹ sinh ra một voi ma mút lai. 6: Xét xem bê bê voi có chứa những tính trạng kháng lạnh không ? Nếu cần, làm thêm những thay đổi khác, tạo ra một đàn voi mamút lai, có cơ phồn thịnh tại vùng đài nguyên, tunđra- tundra .
sẽ tiếp :“ Thuốc Siêu Kháng sinh - Super Antibiotic” ….
( Irvine , Nam Ca Li – Hoa Kỳ ngày 23 tháng 3 năm 2015 )