22/10/2015
Lạm bàn về:
Tỉnh Quảng Đông
tỉnh phía Nam nhất lục địa Trung Quốc,
GDP lớn nhất mọi tỉnh Tàu…
GS Tôn thất Trình |
Phần I : Tổng quát
Quảng Đông viết theo Wade-Giles La mã hóa là Kuang-tung , theo truyền thống là Kwangtung , là một Sheng (thành , tỉnh ) miền Nam Trung Quốc. Trước đây theo tiếng Anh là Canton hay Kwangtung .Đây cũng là tỉnh xa nhất lục địa phía Nam Trung Quốc , và cũng là vùng thương mãi cả Nam Trung Quốc đa số hướng vào . Quảng Đông có một bờ biển dài hơn bất cứ ở tỉnh Tàu nào , kéo dài từ Biển Đông ( quốc tế, Tàu gọi là Nam Hải ) đến Đông Nam và Nam , gồm luôn các mối nối kết để hai vùng quản trị hành chánh đặc biệt là Hồng Kông và Ma Cao ( Macau ). Tây giáp Vùng tự trị Tráng Quảng Tây; Bắc giáp hai tỉnh Hồ Nam và Giang Tây - Jiangxi ; Đông Bắc giáp Phúc Kiến – Fujian. Thủ phủ là Quảng Châu- Guangchou, Canton , địa đầu Châu thổ Sông Châu - Pearl- Zhu River Delta .
Diện tích là 179 800 km2 ( 76 100 dặm Anh Vuông ), lớn hơn phân nữa Việt Nam đôi chút , chiếm 1.9 % lảnh thổ Trung Quốc. Tọa độ là 23024’ Vĩ tuyến Bắc và 113o30’ Kinh tuyến Đông , nhưng lại là một trong những tỉnh phát triễn hơn hết mọi tỉnh Tàu . Năm 1989 ở cấp tỉnh, đã trên Giang Tô –Jiangsu ( đứng hạng hai ) và Sơn Đông- Shandong ( đứng hạng ba ). Nền kinh tế Quảng Đông năm 2007 , tính theo GDP cũng đã vượt Đài Loan . Năm 2011, GDP Quảng Đông đạt 5 267 tỉ RMB ( 815 .53 tỉ $ US ) nghĩa là bằng GDP Hà ( Hòa ) Lan( Netherlands- Pays Bas, Hollande). Nhưng GDP mỗi đầu người – per capita Quảng Đông , năm 2014 là 63 452 Yuan ( 10 330 $US ) chỉ đứng hạng 8 Trung Quốc, sau Giang Tô, Triết( Chiết ) Giang - Zhejiang và Liêu Ninh –Liaoning v.v… GDP Quảng Đông, năm 2014 ,là 6 779 tỉ Yuan – RMB ( 1104 tỉ $ US ) Tổng số dân, năm 2009, là 95 .4 triệu người . Năm 2014, lên đến 106 400 000 người , là tỉnh đông dân nhất Trung Quốc , và đông hơn tổng số dân Việt Nam. Quảng Đông đã được chấp nhận là tỉnh đông dân nhất Trung Quốc tháng giêng năm 2005. Thống kê chánh thức truyền thống xếp Quảng Đông vào hàng thứ tư về dân số, khỏang 80 triệu người . Tứ Xuyên - Sichuan cũng thường được xem là tỉnh dân số đông nhất nước Tàu . Nhưng năm 1997 , Tứ Xuyên đã chia ra làm hai tỉnh là Tứ Xuyên và Trùng Khánh- Chongqing . Thế nhưng thông tin mới giải tỏa cho thấy có thêm 30 triệu dân di cư sinh sống ở Quảng Đông, ít nhất là 6 tháng một năm. Dân di cư từ các tỉnh Tàu khác , tục gọi là “ Dân trôi nổi – floating population” , đến Quảng Đông vì kinh tể tỉnh phồn thịnh và cần có thêm nhiều nhân công . Nếu tỉnh Quảng Đông là một quốc gia độc lập, Quảng Đông sẽ nằm trong số 20 quốc gia đông dân nhất thế giới , đông hơn cả hai quốc gia là Pháp , Đức nhập lại hay đông hơn Vương Quốc Anh Thống Nhất - United Kingdom hay đông hơn cả ba tiểu bang Hoa Kỳ nhập chung ( California, Texas và New York) .
Đa số dân Quảng Đông là tộc dân Hán chiếm 99% tổng số; thứ đến là tộc dân Tráng – Zhuang chiếm 0.7% và tộc dân Yao , chiếm 0.2%. Phương ngữ -tiếng nói địa phương gồm tiếng Quảng Đông – Cantonese : Hẹ -Hakka ở Huy Châu – Huizhou, Mỹ Châu – Meizhou, Hà Nguyên – heyuan , Sào ? Quan – Shao quan và Trương Giang , Tiều Châu - Teochew ở Triều Sơn -Chao San , Lễ Châu- Leizhou (là ngôn ngữ địa phương dân đảo Hải nam ) Min, Tứ ? Hoa -Tuhoa , Quan thọai và Tráng . Theo nghiên cứu năm 2010, chỉ 20% dân Quảng Đông theo các tôn giáo có tổ chức mà thôi , đông nhất theo Phật giáo 6.2%, tiếp theo là Tin Lành 0.8% và Cơ Đốc 0.2%. Khỏang 93% hoặc không theo tôn giáo nào cả , hoặc liên quan tới các tôn giáo dân gian – folks religion , tỉ như thờ các thần thánh thiên nhiên và tổ tiên-ông bà hay các giáo phái phổ thông khác, Đạo ( Lảo Tử , Trang tử .. .)giáo – Taoists và các nhà thờ Khổng tử .
Phân chia hành chánh
Tỉnh Quảng Tây chia ra làm 2 thành phố cấp phụ tỉnh ( sub provincial ) và 19 thành phố cấp Phủ ?( prefectural cities ); 20 thị trấn cấp quận ( county level), 36 quận 3 quận tự trị và 51 huyện ( district ) , 1134 thị trấn cấp huyện lỵ ( township level ) , 4 thị trấn cấp huyện, 7 thị trấn tộc dân cấp huyện lỵ , và 436 phụ huyện ( sub distri cts) . Nhắc lại là thành phố trung ương quản trị như Quảng Châu gọi là tebichi ; thành phố cấp Phủ là Di tế Trì ?- dijishi, cấp huyện do tỉnh quản trị là Trì Hạ Khu – Shixiaqu; huyện là Xian, huyện tự trị là zizhixian và các thị trấn cấp quận là Trì tế huyện –xianjishi . Trên phương diện chánh trị Quảng Đông có hệ thống đôi – dual system như phần còn lại của Trung Quốc . Tỉnh trưởng , thống đốc – governor đảm trách mọi việc hành chánh tỉnh. Tuy nhiên, Thư ký ( tỉnh ) Đảng Cọng Sản , thường là dân ngòai Quảng Đông, kiểm sóat Thống Đốc . Hồng Kông và Ma Cao là những vùng quản trị đặc biệt – special administrative regions , SARs . Hơn nữa Các Luật Căn Bản - Basic Laws của cả hai SAR này minh bạch rỏ ràng, cấm các chánh quyền tỉnh can thiệp vào chánh trị đia phương các SAR này . Thành quả là nhiều vấn đề của Hồng Kông – Ma Cao, tỉ như chánh sách biên giới , quyền hạn nước nôi đã được giải quyết bằng các thỏa hiệp giữa chánh phủ SAR và chánh quyền tỉnh Quảng Đông .
Mức tăng gia dân số các Phủ từ năm 2000 đến 2010
Tên 2000 2010
Qingyuan , Khánh Nguyên 3 147 679 3 698 394
Shao guan , Sào Quan 2 73122 2 826 612
Heyuan, Hà Nguyên 2 265 155 2 953 019
Meizhou, Mỹ Châu 3 802 009 4 240 139
Chaozhou, Triều Châu 2 402 201 2 669 844
Zhaoqing, Triệu Khánh 3 371 417 3 918 085
Yunfu , Vân Phủ 2 152 915 2 360 218
Foshan , Phó? Sơn 5 337 888 7 194 311
Guangzhou , Quảng Châu 9 943 000 12 700 800
Dongguan , Đồng Quan 6 445 700 8 220 237
Huizhou , Huy Châu 3 216 343 4 597 002
Shanwei , Sơn Vệ (Vị )? 2 453 084 2 935 717
Jieyang, Kiệt Dương 5 237 400 5 877 025
Shantou , Sơn Tú?, Sơn Đầu ? 4 671 086 5 391 028
Zhanjiang , Trương ? Giang 6 072 884 6 993 304
Maoming , Mao Minh 5 239 664 5 817 753
Yangjiang, Dương Giang 2 170 401 2 421 812
Jiangmen , Giang Môn 3 950 275 4 448 871
Zhongshan , Trung Sơn 2 363 542 3 120 884
Zhuhai , Chu Hải 1 235 582 1 560 229
Shenzhen , Thẩm Quyến 7 008 428 10 357 938
Mô hình dân Quảng Đông định cư
2/ 5 dân Quảng Đông sống ở làng xã- thôn ấp , vẫn còn là những đơn vị chức năng căn bản của tỉnh. Số làng xã lớn nhất, nằm ở các châu thổ phì nhiêu và dọc các sông ngòi. Số thị trấn và thành phố còn lớn hơn nữa, cũng nằm trong các châu thổ và các vùng bờ biển và dọc theo các đường giao thông chánh yếu. Vùng đông dân đô thị nhất là ở châu thổ sông Châu . Đa số dân gian sinh sống ở thị thành . Đối với Trung Quốc , Quảng Đông là tỉnh tương đối có mức đô thị hóa cao của Trung Quốc và tập trung đô thị lớn nhất là ở Quảng Châu . Tuy nhiên , Thẩm Quyến và Sơn Tú là những thành phố lớn chánh yếu và Phố ? Sơn – Foshan , Sào Quan – Shaoguan , Chu Hải - Zhuhai và Trương Giang- Zhanjiang là những đô thị quan trọng. Quảng Châu và Trương Giang ( ở bán đảo Lệ, Lễ Châu- Leizhou phía Tây Nam ) đã được xem là những thành phố bờ biển“ mở -open” kể từ đầu thập niên 1980 và đã trở thành trung tâm cho qui họach kinh tế tương lai tỉnh nhà. Cùng lúc , Sơn Tú – Shantou (về bờ biển phía Đông ) và Thẩm Quyến, Chu Hải ( nằm gần Hông Kông và Ma Cao) được xếp vào hạng những vùng kinh tế đặc biệt , mỗi vùng có những ảnh hưởng kinh tế chánh yếu riêng biệt .
Chút ít Lịch sử
Ghi chép lịch sử Quảng Đông khởi đầu từ thời đại Tần - Qin dynasty . Sau khi thống nhất đế quốc Tàu , nhà Tần mở rộng về phía Nam, thiết lập Dinh -Commandery Nam Hải – Nanhai ở Bàn Dư – Panyu , nay kế cận một phần đất Quảng Châu . Vùng dinh Nam Hải trở thành Nam Việt- Nanyue giữa thời Tần mất nước và thời vua Vũ - Wu nhà Hán. Triều Hán cai trị Quảng Đông , Quảng Tây và miền Bắc Việt Nam dưới tên là Bộ (Tỉnh ? ) Giao Chỉ - Jiaozhi , phía Nam Giao Chỉ nhất là cổng ra vào buôn bán với Tây Phương , xa đến tận Đế Quốc La Mã . Dưới thời Tam Quốc , `` Quảng Đông thành tỉnh Quảng năm 226 . Theo Sử ký Tư Mã Thiên , Hán Thư , Ngô Việt xuân thu cùng các nhà bác cổ học Pháp như E. Chavannes, Cl. Madrolle, chúng ta biết được hơn trăm năm sau Câu T iễn ( 333 trước C N ). Nước Việt ở Chiết Giang , bị quân Sở diệt, từ đó lìa tan xuống Giang Nam , rải rác theo bờ biển và lục địa như Phúc Kiến , Quảng Đông , Quảng Tây , Lĩnh Nam , hổn hợp với dân địa phương mà thành lập các quốc gia nhỏ hay các bộ lạc. Các bộ lạc nhỏ dần dần bị thôn tính các bộ lạc linh tinh( Bách Việt ) thu hẹp lại , chỉ còn 5 nhóm có hình thức quốc gia : Đông Việt ở Ôn Châu , Mân Việt ở Phúc Châu , Nam Việt ở Qủang Châu, Tây – Âu và Lạc Việt ở phía Nam Quảng Tây và Bắc phần Đông Dương ngày nay. Nhóm Lạc Việt , tổ tiên trực tiếp của dân tộc Việt Nam, là họ Lạc trong Mân Việt - Phúc Kiến theo đường biển đến duyên hải phương Nam, vào Hải Nam và trung châu sông Nhị ( sông Hồng ) phía Bắc Việt Nam ngày nay . Theo Nguyễn Thiên Thụ ( Dòng Việt số 7 – 2005 , Nam Ca Li ) thì năm 214, Tần Thủy Hòang sai Đồ Thư đem quân đánh Bắc Việt lúc đó gồm cả Hồ Nam , Quảng Đông , Quảng Tây. An Dương Vương hàng phục Nhà Tần . Quân Tần chia đất Bách Việt và Âu Lạc thành 3 quận : Nam Hải ( Quảng Đông ) , Quế Lâm ( Quảng Tây ) , Tượng Quận ( Bắc Việt ). Năm 111 trước CN, Hán Vũ Đế sai Lộ Bác Đức và Dương Bộc đánh nước Nam Việt của Triệu Đà cải tên thành Giao Chỉ bộ , chia thành 9 quận : Nam Hải ( Quảng Đông ) , Thương Ngô ( Quảng Tây ) , Uất Lâm ( Quảng Tây ) , Hợp Phố ( Quảng Đông ), Châu Nhai ( đảo Hải Nam ), Đảm Nhĩ ( đảo Hải Nam) , Giao Chỉ ( Bắc Việt ), Cửu Chân ( Trung Việt ) ,Nhật Nam ( Trung Việt)
Thời gian trôi chảy, Quảng Đông dần dần chuyễn qua cai trị của Hán Tàu, khi các tộc dân trộn lẫn nhau vì thương mãi dọc theo các kênh đào lớn và chuyễn đột ngột xuyên qua một cuộc di cư to lớn từ miền Bắc vào những thời kỳ hổn lọan và xâm lăng của các dân du mục, kể từ khi triều Hán mất nước . Chẳng hạn, nội chiến ở miền Bắc Trung Quốc tiếp theo cuộc nổi lọan của An Lộc Sơn – AnLushan có thành quả là dân số Quảng Châu tăng thêm 75% , các năm 740 – 750 đến các năm 800 – 810. Khi nhiều di cư vào, dân địa phương dần đần đồng hóa văn hóa Hán Tàu hay phải rời bỏ đi nơi khác . Từ thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ thứ 12 , có nhiều đàn bà Ba Tư - Persian women sinh sống tại Quảng Châu ( Canton ) , vài người ở thế kỷ thứ 10 tỉ như Mỹ Chu – MeiZhu thuộc hậu cung - harem của Hòang đế Lưu Tràng – Liu Chang và vào thế kỷ thứ 12 , một số đông đàn bà Ba Tư sinh sống ở đây, nổi danh đeo nhiều hàng bông tai – earrings và hay cải nhau . Vào năm 627 đời Đường, Quảng Đông cùng với Quảng Tây nhập lại thành một phần Lĩnh Nam – Lingnan , Vòng tự trị Núi Nam – Mountain – South Circuit . Phần Quảng Đông của Vòng này, năm 971, triều đại Tống đổi tên thành Quảng Nam Vòng Đông- guăngnan dõng lù. Quảng Nam Đông – Guangnan East “ là nguồn gốc tên Quảng Đông . Khi quân Nguyên- Mông Cổ , từ miền Bắc xâm chiếm Trung Quốc vào thế kỷ thứ 13 , triều đại Nam Tống rút lui về phía Nam, cuối cùng vào Quảng Đông ngày nay . Trận Chiến Diên Môn ? - Yamen , năm 1279 ở Quảng Đông chấm dứt triều đại Nam Tống ( 960- 1279 ). Trong đời Nguyên - Mông Cổ, nhiều phần đất Quảng Đông thuộc về tỉnh Giang Tây – Jiangxi . Triều đại Minh đặt ra tên tỉnh Quảng Đông, lần đầu tiên .
Kể từ thế kỷ thứ 16 , Quảng Đông đã buôn bán rộng rải với phần thế giới còn lại . Các thương gia Âu Châu đến từ miền Bắc ngang qua eo biển Malacca Straits và Biển Đông ( Nam Hải Tàu ), đặc biệt là dân Bồ Đào Nha và dân Anh Quốc hầu hết ngang qua Quảng Châu. Ma Cao ( Macau ) ở phía Nam bờ biển Quảng Đông là nơi dân Âu Châu định cư đầu tiên ở Tàu, năm 1557. Vào thế kỷ thứ 19, thuốc phiện bán qua Quảng Châu đã khơi mào Cuộc Chiến tranh Nha Phiến lần thứ nhất , tạo thành một thời đại ngọai quốc xâm lăng và can thiệp vào Trung Quốc . Cọng thêm với Ma Cao, lúc đó là thuộc địa Bồ Đào Nha , Hồng Kông được nhượng cho Anh Quốc và Quảng Châu Loan ( một vùng thị trấn Trương giang – Zhanjiang ngày nay ) cho Pháp.
Quảng Đông cũng là một cảng ra đi của lao động Tàu sang Đông Nam Á và Tây phương, vào cuối thế kỷ thứ 19 , tỉ như Hoa Kỳ và Gia Nã Đại. Thành quả là nhiều cộng đồng Tàu có nguồn gốc Quảng Đông . Tiếng Quảng Đông – Cantonese theo sĩ số Hoa Kiều được nói nhiều hơn là ngôn ngữ lục địa khác . Cho nên nhiều từ ngữ Tàu quan thọai nguồn gốc ngọai quốc đến bằng nguồn gốc tiếng Quảng Đông. Tỉ dụ từ Ninh Mông – Ning meng có nghĩa là chanh vàng – lemon đến từ tiếng Quảng Đông , mà tên chữ Hán đọc ra là lìng mung. Ở Hoa Kỳ , rất nhiều Hoa Kiều là con cháu dân di cư từ thị trấn Đại Sơn- Taishan ( tiếng Quảng Đông là Toisan) , nói một thứ tiếng địa phương liên quan đến tiếng Quảng Đông , gọi là tiếng Đại San- Taishannese hay Toishanese .
Vào thập niên 1850 , Cuộc Nổi Lọan Thái Bình Thiên Quốc- Taiping Rebellion mà lảnh tụ Hồng Tú Tòan -Hong xiu Quan, sinh quán Quảng Đông và nhận được một bản văn đả kích từ một mục sư Tin Lành ở Quảng Đông , trở thành một cuộc nội chiến lớn ở Miền Nam Tàu . Nhờ tiếp xúc trực tiếp với Tây Phương , Quảng Đông biến thành một trung tâm chống Mãn Thanh và các họat động chống đế quốc . Lảnh tụ thường được xem là cha đẻ của Trung Quốc cận đại Tôn Dật tiên- Sun Yat Sen, cũng là dân Quảng Đông. Trong thuở đầu thập niên 1920 của nền Cộng Hòa Trung Quốc, Quảng Đông là nơi xuất phát Quốc Dân Đảng – Kuomintang ( KMT ) sửa sọan Bắc Tiến, trong cố gắng kéo các tướng quân - warlords Tàu về dưới quyền chánh phủ Trung Ương . Viện Quân sự Hòang Phố - Whampoa Military Academy được thành lập gần Quảng Châu , để đào tạo các chỉ huy quân đội.
Những năm gần đây , tỉnh phát triễn kinh tế cực kỳ mau lẹ, phần lớn nhờ những buôn bán gần gủi Hồng Kông , cũng có biên giới với Quảng Đông . Như đã nói, nay Quảng Đông có GDP cao nhất Trung Quốc . Năm 1952, một khu vực nhỏ bờ biển Quảng Đông được trao cho Quảng Tây để Quảng Tây có đường ra biển . Năm 1955 , khu vực hòan lại cho Quảng Đông, nhưng lại trả lui cho Quảng Tây năm 1965 . Đảo Hải Nam , nguyên thủy thuộc Quảng Đông, năm 1988 đã trở thành một tỉnh riêng biệt .
Chút ít Địa lý
Địa hình và các thành phố, thị trấn quanh Sông Châu
Quảng Đông đối diện Biển Đông ( Nam Hải ) về phía Nam . Bờ biển dài dến 4300km ( 2700 dặm Anh ) . Bán đảo Lễ Châu -Leizhou nằm về phần cuối Tây Bắc tỉnh . Có vài hỏa diệm sơn đã tắt ở bán đảo Lễ Châu. Châu thổ sông Châu là nơi đồng quy của ba sông thượng nguồn : Sông Đông – East River , Sông Bắc – North River và Sông Tây - West River. Châu thổ đầy rẫy hàng trăm đảo nhỏ . Vài rặng núi tên chung là Núi - Nam – Nan Ling ( Nan Mountains ), làm tỉnh chia rời phía Bắc Trung Quốc. Đỉnh cao nhất tỉnh là Shikengkong- Tây Kiễn Khổng ? cao 1902 m trên mức mặt biển.
Quảng Đông giáp tỉnh Phúc Kiến- Fujian về phía Đông Bắc , Giang Tây- Jiangxi và Hồ Nam – Hu nan về phía Bắc , vùng tự trị Quảng Tây về phía Tây các vùng hành chánh đặc biệt là Hồng Kông và Ma Cao về phía Nam . Ngoài khơi là tỉnh Hải Nam - hainan ngang qua bán đảo Leizhou. Các đảo Kim môn- Mã tổ - Pratas Islands ? , trước đây là một phần đất Quảng Đông nay do Cộng Hòa Trung Quốc Đài Loan quản trị . Các thành phố- thị trấn quanh sông Châu gồm có : Đồng Quan – Dongguan , Phó ? Sơn – Foshan, Quảng Châu , Huy Châu- Hui Zhou , Giang Môn- Jiangmen , Thẩm Quyến - Shenzen , Song ? Đức Shunde, Đại Sơn , Trung Sơn- Zhongshan , và Chu Hải - Zhu hai . Các thành phố khác trong tỉnh là Triều Châu – Chaozhou , Thanh Hải- Chenghai, Nam Hải -Nanhai, Sơn Tú – Shantou , Sào ? Quan - Shaoquan , Trương Giang – zhanjiang gần Quảng Châu Loan thuộc Đông Pháp trước các năm 1945- 54 , Chiêu Kinh – Zhaoqing, Dương Giang – Yangjiang và Vân Phủ -Yunfu .
Khí hậu
Khí hậu Quảng Đông là nhóm phụ nhiệt đới ẩm ướt , dù cực Nam Quảng Đông gần khí hậu nhiệt đới hơn . Mùa đông ngắn ngủi , ôn hòa , dễ chịu và tương đối khô hạn . Mùa hè dài , nóng nực và rất ẩm ướt . Nhiệt độ trung bình ở Quảng Châu cao nhất vào tháng giêng là 18 độ C ( 64 độ F) , vào tháng 7 là 33 độ C ( 91 độ F ) dù rằng ẩm độ làm cho có cảm tưởng là mùa hè nóng nực hơn . Ít khi có đông gía ở bờ biển , nhưng có thể có vài ngày đông gía lạnh ở mùa đông nội địa . Hơn phân nữa tổng lượng mưa rơi xuống Quảng Đông từ tháng 6 đến tháng 8. Tháng 7 đến tháng 9 làm ra mùa bảo tố -typhoons - tropical cyclones chánh yếu, thường kèm theo mưa lớn và tàn phá lan tràn. Lượng mưa hàng năm là 1500 – 2000mm ( 60- 80 ngón Anh ) , giảm dần từ bờ biển đến Tây Bắc , nhưng lại tăng thêm với cao độ và mức phô bày trước gió mùa mùa hè .
Sông ngòi
Sông Châu (Pearl River) và cầu Humen Bridge
Quan trọng nhất là sông Châu- Pearl river . Châu thổ sông Châu có diện tích là 7500 km2 ( 2900 dặm Anh vuông), đặc điểm là các đồi khối sót địa di – hilly outliers và một lọat kênh đào chằng chịt cùng một số phụ lưu, tổng cọng chiều dài lên đến 2400 km ( 1500 dặm Anh ) . Châu thổ là nơi đồng quy của 3 sông chánh hệ thống sông Tây – Xi River: các sông Tây( West ) , sông Bắc và sông Đông. Ngay cả sông Châu chảy về Nam từ Quảng Châu , nhận sông Đông và đổ về cửa hình tam giác có Macao ( phía Tây và Hồng Kông phía Đông làm cửa sông. Hòan tòan do mưa đưa tới, các sông này thay đổi lớn theo mùa và chúng nhận nhiều nước đến nổi lưu lượng hệ thống sông Tây cao một cách lạ thường , hơn lưu lượng sông Hòang Hồ - Yellow River đến sáu lần rưỡi, dù lưu vực sông Tây chỉ bằng phân nữa Hòang Hồ. Tổng cọng Quảng Đông đếm được 1300 sông lớn, nhỏ . Sông Hán là sông quan trọng nhất , ngòai hệ thống sông Châu . Các sông quan trọng khác và các đất thấp nằm về phía Tây Nam tỉnh . Phía giữa và phía cuối các sông đã bị ô nhiễm trầm trọng kể từ thập niên 1990, vì số lượng to lớn các phế thải không được chửa trị sạch và nước phế thải đổ vào chúng từ các vùng đô thị hóa và công nghệ hóa mau lẹ .
Đất đai
Đất đai Quảng Đông , nói tổng qúat khá nghèo nàn vì nhiệt độ cao và mưa nhiều. Thành quả là hiện tượng podzolhóa ( trôi rửa phì nhiêu ), và ngâm chiết – leaching. Hầu như tòan thể Tây Quảng Đông đều do đất đỏ red soils bao phủ , trong khi phần tỉnh còn lại là một lẫn lộn giữa các đất đỏ già hay trẻ, thường đã bị podzol hóa cao rồi . Ở phần Quảng Đông nóng nực và ẩm ướt đất đá ong – latêrit là thường xuyên. Giống y hệt đất đỏ, chúng không kháng cự lại xói mòn và cần nhiều phân bón mới trồng trọt được . Đất vàng – yellow soils tìm thấy ở những nơi ẩm thấp và lạnh lẻo nhất tỉnh ; xảy ra ở những túi bọc nhỏ đất bằng phẳng, khi không thoát thủy được tốt đẹp. Phân phối giới hạn hơn nhưng quan trọng về mặt kinh tế là các đất phù sa trầm tích trên các thung lũng sông và châu thổ . Thành qủa của trồng lúa nước là các đất phù sa phát triễn ra những dạng hình đặc thù, mà dạng đáng ngạc nhiên nhất , là những tầng cứng rắn sắt -iron ( các tầng không thấm nước gồm phần lớn là sét ) ở vùng thủy cấp lên xuống .
Đời sống thực vật và động vật
Ẩm độ cao, nhiêt độ cao hay khá cao , và địa hình đa dạng hổ trợ một tăng trưởng thực vật um tùm và đa dạng. Các rừng lá rộng vạn niên thanh ( luôn luôn xanh )- evergreen là một lẫn lộn các cây lọai thông và lọai rụng lá, nguyên thủy bao phủ phần lớn đất đai , trong khi một lọai thực vật nhiệt đới hơn chủ trì tại bờ biển Nam. Ngọai trừ các vùng núi non xa xôi, đa số thực vật thiên nhiên này đã bị lửa rừng và dùng cây mộc hay lùm bụi làm nhiên liệu, thành những băng giải. Tình trạng này cùng trồng trọt không ngừng từ mấy ngàn năm , làm ra những rừng thiên nhiên thứ cấp gổ cứng và thông mộc tặc – horsetail pine. Trên những đồi bị xoi mòn nặng nề hơn, cỏ hòa bản kém cỏi hơn và dương xĩ – fern đã chiếm cứ . Các bụi tre , bề cao và bề rộng thay đổi nhiều lan tràn , đặc biệt ở các thung lũng sông ẩm ướt . Rừng sản xuất mạnh mẽ và ít bị tàn phá là ở các vùng núi non . Vài lòai cây đáng kể như long nảo- camphor đã được sùng kính và bảo vệ từ nhiều thế kỷ và tìm thấy gần các đất đai trồng trọt . Kể từ năm 1949, những chương trình khối lượng trồng lại rừng đã được thực thi . Tại các vùng đất cao, nơi các lòai thông và lòai lá rụng cùng mọc tốt, các rừng là rộng luôn luôn xanh đặc điểm là gỗ sồi nhiệt đới- tropical oaks ? , sồi làm tannin và sồi hạt dẽ - chestnut oaks ( còn có tên là Chinquapins) . Lòai thông có giá trị kinh tế cao gồm có thông mộc tặc , linh sam tàu – Chinese fir và độc cần tàu – Chinese hemlock. Vài lòai tùng – cypress và thông này rất ít người ngòai Trung Quốc biết đến . Rừng rậm – rainforests đích thật là rừng nhiệt đới gió mùa, xuất hiện thường xuyên ở miền Nam Quảng Đông .
Trong số những động vật có vú tìm thấy ở Quảng Đông là nhiều lọai dơi nhiệt đới , sóc, chuột nhắt và chuột cống, chuột đồng. các động vật ăn sâu bọ - insectivores thường chứa nhiều lọai hơn là ở các tỉnh khác và động vật ăn thịt- carnivores đáng kể ra là cầy giông ( cho xạ hương ) -civet cat và rái cá vuốt nhỏ - small –clawed otters. Chim hoang –wildfowl, công , trĩ bạc – silver pheasants cũng rất thường . Bò sát Quảng Đông gồm một số lòai rắn hổ - pit viper kể cả rắn hổ tàu to lớn và nọc chết người và rắn hổ tre, cũng như trăn không có nọc độc – nonpoisonous pythons , có khi dài đến hơn 6m ( 20 bộ Anh ) . Cũng tìm thấy rất nhiều lòai côn trùng tỉ như dế, bướm , chuồn chuồn , châu chấu , ve sầu và sâu róm - beetles . Nhóm lưỡng cư gồm có các động vật đào hang dưới đất và nhiều lọai ếch nhái , cóc. Cọp ( hổ ), tây ngu, báo – beo, chó sói , gấu và chồn, trước đây lảng vảng khắp đồi núi Quảng Đông , nay đã bị giết nhiều vì nạn lữa cháy rừng , tàn phá đốn rừng và săn bắt, khiến chúng gần như tuyệt tích . Ở rừng nhiệt đới gió mùa , một số động vật sống trên cây cối, nhiều lòai vẫn sống sót . Thêm vào đó , vài tá vùng bảo tồn thiên nhiên đã được thiết lập đẻ làm nơi trú ẩn cho các lòai bị hiểm nguy .
Sẽ tiếp phần II : Phát triễn Quảng Đông
( Irvine , Nam Ca Li – Hoa Kỳ, ngày 15 tháng 10 năm 2015)