3/4/2016
Đặc tính các vùng sinh thái miền đồng bằng sông Cửu Long
GS Thái Công Tụng
1.Tổng quan .
Cũng như châu thổ sông Hồng, cũng như các đồng bằng duyên hải miền Trung, châu thổ sông Cửu Long đã từng nằm dưới biển cạn. Biển cạn bao phủ toàn miền, kể cả vùng Nam Vang, Biển Hồ, chỉ trừ một vài hải đảo ngày nay nằm trong đất liền như Núi Sam, Núi Sập ở vùng Châu Đốc Hà Tiên. Thực vậy, hết thời kì băng giá lần cuối quãng 19 000 năm trước đây , nước biển dâng lên nhanh chóng, cao hơn mực nước biển ngày nay chừng 4m.5 vào thời Holocen sớm .. Lúc đó, bờ biển gần đến Phnom Penh (Nam Vang) ngày nay. Vùng biển cạn bao phủ toàn những cây tràm (Melaleuca), cây đước (Rhizophora sp.), cây mắm (Avicennia sp.). Những thực vật chịu mặn này đã tạo thuận lợi cho việc giữ lại các vật liệu lắng tụ, làm giảm sự xói mòn do nước hoặc gió, và cung cấp sinh khối cho trầm tích châu thổ. Rồi phù sa mỗi năm tràn về, làm lấp dần các rừng cây sú vẹt. Nhiều mũi khoan gần Angkor và Biển Hồ Tonle Sap cho thấy vết tích của các trầm tích biển như sú vẹt đầm lầy . Hình thái châu thổ sông Cửu Long dần dà được tạo thành trong khoảng 6000 năm nay . Trong khoảng thời gian này, châu thổ đã tiến 200 km trên thềm lục địa và mực nước biển hạ dần và mỗi lần hạ thấp xuống lại để lại một bờ biển mới .. Nhiều bờ biển cổ nay thường gọi là ‘giồng’ như trong dân gian gọi như Giồng Trôm, Giồng Ông Tố v.v. . Nhiều tỉnh như Bến Tre, Trà Vinh có nhiều giồng cát là đất của các bờ biển cổ.
2. Các vùng sinh thái.
2.1.nhận xét tổng quát
Nói đến đồng bằng sông Cửu Long là nói ngay đến nước: thực vậy, kinh rạch ngổn ngang, bàu, ao, bưng, sông sâu, sóng cả.
Nhiều ca dao phản ánh kinh rạch chằng chịt với ghe thuyền buôn bán :
-Chèo ghe sợ sấu cắn chưn,
Xuống bưng sợ đĩa lên rừng sợ ma
-Ghe anh đỏ mũi xanh lường,
Ở trên Gia Định xuống vườn thăm em
-Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Xà No
Có thương em, anh mua cho một chiếc đò
Để em lên xuống thăm dò ý anh
-Bước xuống bắc Mỹ Tho, thấy sóng xô nước đẩy
Bước lên bờ Rạch Miễu, thấy nước chảy vòng quanh
Anh biết chắc nơi đây là đất Châu thành
Sao tìm hoài không thấy trong đám bộ hành có em
-Anh đi ghe gạo Gò Công
Vô vàm Bao Ngược, gió giông đứt buồm
Những vùng đất thấp, úng nước có nhiều từ ngữ gắn với đặc điểm địa lý như bưng, bào, đìa, láng, lung, lạch..; đặc biệt các từ ngữ chỉ các trạng huống của nước (nước rong, nước ròng, nước đứng…) rất phong phú;
-Nước rong nước chảy tràn đồng
Tơ duyên sẵn có chỉ hồng chưa se
-Nước sông lững đững lờ đờ
Thương người nói vậy biết chờ hay không.
2.2. Các vùng sinh thái .
Các vùng sinh thái là những vùng tương đối đồng nhất về nhiều yếu tố như đất (ví dụ đất mặn, đất phèn ..), như nước (nước mặn, nước lũ).
Dưới đây là mô tả 6 vùng sinh thái tại đồng bằng sông Cửu Long
Phân vùng vùng sinh thái ở ĐBSCL (Vo Tong Xuan and Matsui, 1998).
2.2.1 Vùng ven biển đất mặn
Bao gồm nhiều vùng đất duyên hải thấp ở Bac Lieu, Soc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre, Gò Công. Đất mặn vì gần biển, chịu tác động của thuỷ triều lên xuống mỗi ngàỵ... Trong vùng này, cũng găp nhiều giồng cát duyên hải rộng hẹp, dài ngắn tùy vùng và dưới các đất giồng này có nước nhạt (nước ngọt) uống được. Các giồng cát có hình vòng cung song song với bờ biển, nhô cao hơn so với các vùng đất phù sa chung quanh, xuất hiện ở các huyện vùng Gò Công, Trà Vinh... Đó là những chứng tích còn lại của thời kỳ biển lùi. Đất cát giồng (Fluventic Tropopsamments) có mức độ phì nhiêu thấp, ít chua trên mặt và trung tính ở tầng sâu; nhưng có địa hình cao nên được di dân đến ở trong buổi đầu khai khẩn đất hoang. Hơn nữa đất cát giồng giữ được nước ngọt cho mùa khô, nên thường là tụ điểm dân cư đông đúc.
Vào mùa mưa, nhờ lưu lượng nước khá lớn nên có thể đẩy lùi nước mặn từ dòng sông chính và kênh lớn ra biển còn vào mùa khô nước triều biển Đông xâm nhập sâu vào nội địa nên nhiều khu vực bị nhiễm mặn, không trồng lúa được. Phải chờ vài trận mưa đầu mùa để rửa mặn truóc khi cấy lúa. Thực vật trong rừng ngập mặn thường gặp là cây đước, mắm , sú vẹt , chà là …bao phủ và ngập nước triều quanh năm.. Đất phù sa địa hình thấp nhiều nơi còn chịu ảnh hưởng nước thủy triều và lũ từ nguồn đổ về nhờ đó ruộng có nước tự chảy quanh năm, lợi ích lớn cho nông nghiệp.
2.2.2. Vùng Đồng Tháp Mười .
Nằm trong các tỉnh Kiến Tường, Kiến Phong (truoc 1975), ngày nay trong các tỉnh Mỹ Tho, Long An, với địa hình bằng phẳng, độ cao quãng 2 mét so với mặt biển.
Thực vật ngoài các đồng cỏ năng, cỏ lác còn có rừng tràm với nhiều chim cò. Động vật rất đa dạng; riêng về cá thì nông dân địa phương thường gọi cá đen sinh sống trong song rạch hoặc vùng ven sông như cá lóc, cá trê, cá rô và cá trắng có thể di cư rất xa như cá chép, cá tra, cá b ông lau, cá ba sa; ngoài cá còn có chuột đồng bán đầy ngoài chợ , còn rắn thì nào rắn nước, rắn hổ, rắn bông súng, rắn mối. Ngoài đất phù sa ven sông, trong vùng Đồng Tháp còn có đất phèn:
-đất phèn tiềm tàng ( Sulfaquents) hình thành trong vùng chịu ảnh hưởng của nước có chứa nhiều sulfat. Trong các điều kiện yếm khí, cùng với hoạt động của vi sinh vật, sulfat nhôm và sulfat sắt bị khử để tạo thành lưu huỳnh và chất này sẽ kết hợp với sắt có trong trầm tích để tạo thành FeS2. pH thường dưới 4. Vì đất có nhiều H2S nên có mùi hôi .
-Khi đất phèn ở trong môi trường thoáng khí (thoát nước), ta có đất phèn hoạt động (Sulfaquepts) dưới dạng màu vàng, mà dân gian thường gọi là đất cứt chuột (jarosite). Đất phèn hoạt động và đất phèn tiềm tàng không phải chỉ ở vùng Đồng Tháp mới có mà hiện diện tại nhiều vùng sinh thái khác . Ví dụ: đất phèn hoạt động gặp nhiều ở Bán đảo Cà Mau, Tứ Giác Long Xuyên, còn đất phèn tiềm tàng gặp nhiều ở vùng sinh thái Bán đảo Cà Mau và Phù sa ven sông.
Bảng 1.2: Phân bố diện tích đất phèn hoạt động và tiềm tàng ở các vùng sinh thái ĐBSCL
|
Diện Tích (ha)
|
Vùng Sinh Thái
|
Phèn hoạt động
|
Phèn tiềm tàng
|
Tổng
|
Bán Đảo Cà Mau
|
193.395,2
|
191.548,8
|
384.944,0
|
Đồng Tháp Mười
|
72.335,7
|
118.890,2
|
191.225,9
|
Phù Sa ven Sông
|
138.449,1
|
170.325,0
|
308.774,1
|
Tứ Giác Long Xuyên
|
163.476,8
|
61.927,1
|
225.403,9
|
Trũng Phèn Bán Đảo Cà Mau
|
66.863,9
|
19.824,0
|
86.687,9
|
Trũng Phèn Tây Sông Hậu
|
44.319,9
|
50.956,1
|
95.276,1
|
Ven Biển
|
|
31.927,3
|
31.927,3
|
Tổng
|
678.840,8
|
645.398,7
|
1.324.239,6
|
Trong vùng Đồng Tháp, còn có hai nhánh sông Sở Hạ và sông Sở Thượng bắt nguồn từ Campuchia đổ ra sông Tiền ở Hồng Ngự .Đây là vùng ngập sâu hơn các vùng khác ở ÐBSCL nhưng là vùng chiếm diện tích lớn, có tiềm năng lớn, một khi chủ động được nước.
Hình 1.2: Bản đồ phân bố các nhóm đất phèn hoạt động và tiềm tàng vùng ĐBSCL
2.2.3. Vùng phù sa nước ngọt
Bao gồm nhiều tỉnh hai bên sông Tiền và sông Hậu như Long An, Mỹ Tho, Long Xuyên, Châu Đốc, Vĩnh Long; ta liên tưởng ngay đến bài hát:
Giòng An Giang sông sâu sóng biếc,
Giòng An Giang cây xanh lá thắm,
lả lướt về qua Thất Sơn,
Châu Đốc giòng sông uốn quanh,
soi bóng Tiền Giang Cửu Long.
Vùng này nhiều đất phù sa địa hình cao ở dọc hai bên bờ sông Tiền và sông Hậu và hình thành trên trầm tích sông, độ phì nhiêu cao, rất tốt cho sản xuất nông nghiệp từ lúa ruộng đến vườn cây ăn trái dọc theo ven sông cũng như trên đất các cù lao giữa sông .
Có thể chia đất phù sa ra vài nhóm:
-đất phù sa bồi hàng năm (Aeric Fluvaquents) ở ven sông và phần lớn trên các cù lao, các cồn giữa sông. Trắc diện đất chưa phân hoá hoặc phân hoá yếu
-đất phù sa không được bồi (Typic Ustifluvents), nằm chỗ địa hình cao ven sông, màu nâu nhạt hơn đất phù sa được bồi
-đất phù sa không được bồi gley (Aquic Tropaquepts), phân bố xa dòng sông, địa hình thấp đọng nước nhiều tháng trong năm với các đốm gley nghĩa là có những đốm sét màu xám nâu hay xám xanh trong trắc diện đất
-đất phù sa không được bồi có tầng sesquyoxyt loang lổ đỏ vàng (Typic Ustropepts), ở địa hình cao, xa sông, thường trồng lúa lâu đời
Đất phù sa có độ phì nhiêu cao và được dùng trong sản xuất lúa, cây ăn trái, rau đậu ..
2.2.4. Vùng Tứ giác Long Xuyên
Vùng Tứ giác Long Xuyên được giới hạn bởi kênh Vĩnh Tế, Sông Hậu, Quốc lộ 80 và kênh Rạch Giá - Hà Tiên liên quan đến ba tỉnh thành phố là: An Giang, Kiên Giang và thành phố Cần Thơ. Vùng Tứ giác Long Xuyên có tổng diện tích khoảng gần 500.000ha; trong đó, tỉnh An Giang có hơn 230.000ha, chiếm hơn 48%; tỉnh Kiên Giang có hơn 234.000ha, chiếm hơn 47% và thành phố Cần Thơ trên 15.000ha, chiếm hơn 3%. Tuy nhiên, phần phía Bắc của Tứ Giác này,-từ khu dinh điền Cai Sắn trở lên sông Hậu-, không úng ngập như phần phía Nam trong hình. Ngoài ra, trong vùng Tứ Giác Long Xuyên, cũng có vùng cao Thất Sơn (Bảy Núi) gồm huyện Tri Tôn và Tịnh Biên, vì địa hình cao trải dốc theo triền núi nên không bị úng ngập . Tại đây, thường gặp những loại đất xám trên sản phẩm phong hoá đá mácma axit (Plinthic Ustorthents) và đất xói mòn trơ sỏi đá (Lithic Ustorthents). Còn những nơi khác giáp biển của Kiên Giang thì bị ảnh hưởng của xâm nhập mặn (Tropaquepts-salic). Xung quanh vùng núi Thất Sơn , hiện nay rừng đà bị tàn phá hết, cần phải tái tạo hoàn toàn lại.
2.2.5. Vùng trũng sông Hậu (Phụng Hiệp, Chương Thiện)
Chương Thiện là tỉnh thành lập thời Việt Nam Cọng Hoà. Phụng Hiệp được biết vì tại đó có Ngã Bảy Phụng Hiệp có 7 con kinh gặp nhau. Tại Phụng Hiệp, có con kênh đào nối từ sông Hậu qua thị trấn Phụng Hiệp theo hướng ĐB-TN thẳng đến thành phố Cà Mau.Vùng trũng sông Hậu nằm trong tỉnh Hậu Giang ngày nay, cách cửa biển Trần Đề (Sóc Trăng) 65 km và cách cửa biển Rạch Giá (Kiên Giang) 45km, nên Hậu Giang nằm trọn trong vùng bị ảnh hưởng của xâm nhập mặn, nhất là lúc triều cường thì nhiều nơi mặn xâm nhập vào sâu làm độ mặn tăng cao, ảnh hưởng đến năng xuất lúa.
Trong vùng trũng sông Hậu, có đất phèn tiềm tàng nông-mặn (Sulfaquepts-salic); nhiều nơi đất than bùn-phèn (Sulfihemists), đất úng thuỷ nên hiện nay, nhiều nơi vẫn còn lúa cấy hai lần để thích nghi: lúa gieo vào các tháng 6-8, cấy lần đầu vào tháng 8 và sau đó vài tháng, khi cây lúa khá cao chừng 60-70cm thì phải nhổ và đem đi cấy lần thứ hai, mục đích chính là để thích nghi với điều kiện thuỷ lợi . Lúa cấy hai lần năng xuất thường không cao, chu kỳ sinh trưởng dài . Hướng cải tạo là phải đào kinh mương tiêu bớt nước để cấy một lần .
2.2.6. Vùng bán đảo Cà Mau
Vùng bán đảo Cà Mau có đất mặn, đất phèn, đất phèn-mặn và đất hữu cơ.
Đất mặn. Riêng về đất mặn, cũng phải phân biệt đất mặn dưới rừng ngập mặn (Salic Hydraquents, Salic Haplaquents), đất mặn nhiều (Salic Fluvaquents, Salic Ustifluvents), đất mặn trung bình (Tropaquepts-salic), đất mặn ít (Ustropepts-salic)
Nếu tính theo nồng độ muối thì nếu đất chứa dưới 3 gram muối mỗi lít, thì đất đó không mặn; đất chứa trên 12g/lit thì đất mặn nhiều. Từ 3 đến 6 g/lit, thì đất hơi mặn. Có thể đo độ mặn trong đất bằng suất dẫn điện .Suất dẫn điện (Electrical conductivity) tỷ lệ thuận với nồng độ muối trong đất .Người ta thường tính ra decisiemens mỗi mét (dS/m) hoặc millimhos mỗi centimét (mS/cm). Nếu tính theo millimhos/cm thì dưới 4.5 thì đất đó không mặn và trên 4.5 thì đất mặn.
Đất mặn thì sự hút nước của thực vật bị giảm đi. Thực vật có thể hấp thụ dễ dàng nước và phân hoá học đến mức nồng độ muối tối đa từ 3 đến 4mS/cm hoặc một nồng độ muối từ 3 đến 4 gram mỗi lít dung dịch đất (phần nước của đất)
Đất phèn có những tính chất đã mô tả tại vùng Đồng Tháp
Rừng tràm U Minh
Ngoài ra cũng phải kể đất phèn hoạt động nông-mặn (Sulfaquepts-salic), đất phèn hoạt động sâu-mặn (Sulfic Tropaquepts-salic), đất phèn hoạt động nông (Sulfaquepts), đất phèn tiềm tàng nông dưới rừng ngập mặn (Salic Sulfaquents). Rừng thiên nhiên chủ yếu là rừng ngập mặn với cây mắm (Avicennia) là cây tiên phong mọc trên đất bùn lỏng, sau khi đất dần dần được cố định thì mới đến lượt các cây đước (Rhizophora), cây vẹt (Bruguiera cylindrica ) với bộ rể xoè ra như chiếc càng giúp chận làn sóng biển và giữ đất phù sa.
Sau khi đất dần dà ổn định, với thân cây chôn vùi dưới đất lâu năm tạo ra đất hữu cơ nhiều than bùn (Sulfihemists, Sulfohemists), tập trung ở hai khu vực U Minh Thượng và U Minh Hạ với nhiều rừng tràm (Melaleuca) mọc .Đất hữu cơ khoảng 26 ngàn ha, có địa hình khá thấp, trũng. Đất được hình thành bởi xác bả thực vật dạng bán phân rã và hình thành lớp than bùn như vùng U Minh. Rừng tràm U Minh Hạ tỉnh Cà Mau rộng 70.000 ha. Những loại đất hữu cơ rất dễ cháy vì toàn bã thực vật, do đó phải có thuỷ cấp gần mặt đất, nếu để khô nước, nguy cơ cháy là rất cao. Rừng tràm cung cấp gỗ dùng trong xây dựng và là nơi trú ẩn của nhiều đàn ong đến hút nhụy làm mật.
Trong vùng này, có vài con sông sau đây:
-sông Ông Đốc dài 58km, đổ ra Vịnh Thái Lan. Hai bên sông có nhiều rạch như rạch Cái Tàu, rạch Giếng. Tại sao có tên Sông Ông Đốc ? Tương truyền ngày trước, chúa Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn đuổi đánh đến đây. Đô đốc thủy binh Nguyễn Văn Vàng đã xin Nguyễn Ánh được mặc hoàng bào để nghi binh cho Nguyễn Ánh trốn. Vị đô đốc này hy sinh; sau này được lập miếu thờ tại vùng này vào năm 1802. Từ đó, sông này được dân gian gọi là sông Ông Đốc
-Sông Trẹm (còn gọi là sông Tràm Trẹm) là một chi lưu dài 36 km của sông Ông Đốc. Sông ch ảy qua huyện An Minh tỉnh Kiên Giang và huyện Thới Bình tỉnh Cà Mau . Sông Trẹm chia rừng U Minh thành hai vùng U Minh Thượng (thuộc tỉnh Kiên Giang) và U Minh Hạ thuộc tỉnh Cà Mau.
-Sông Gành Hào là tên gọi một con sông chảy ở vùng ranh giới giữa hai tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu và đổ ra Biển Đông ở cửa cùng tên . Sông bắt đầu từ thành phố Cà Mau với các dòng nước từ kênh Phụng Hiệp, kênh xáng Cà Mau-Bạc Liêu hợp lưu .Với những đặc điểm này, sông Gành Hào là một trong những đầu mối giao thông của Cà Mau và một phần Bạc Liêu, là nơi tập trung đi lại của các phương tiện đường thủy cùng với các chợ nổi trên sông.
Còn tiếp Phần 2