13/8/2015
Vai trò của Sinh Tố trong Cơ Thể
Y học thường thức – Bác sĩ Trần Văn Diên
|
Ba nguồn thực phẩm chánh cung cấp năng lượng cho cơ thể đấy là đường, đạm và chất béo. Dự phần vào chu trình biến dưỡng, nền tảng là nước, cùng với dưỡng khí, kim loại và sinh tố.
Chu trình Kreb giải thích sự tương quan mật thiết giữa thực vật và động vật. Thực vật cần hấp thu carbonic (CO2) rồi thải ra ngoài không khí oxygen (O2). Còn động vật hấp thu O2 xong thải ra ngoài CO2. Kim loại rất cần thiết cho cơ thể, điển hình là calcium cần cho sự co thắt bắp cơ. Calcium giúp truyền dẫn tín hiệu đường dây thần kinh. Calcium hiện diện trong đôi thần kinh số tám ở trung tâm não bộ để cảm nhận sự thăng bằng cao thấp. Calcium góp phần thiết thực vào sự thành lập xương…
Sinh tố là chất xúc tác trong chu trình biến dưỡng, thiếu sinh tố thì chu trình biến dưỡng sẽ bị gián đoạn sinh bệnh. Có sáu sinh tố là A, B, C, D, E và K. Sinh tố được phân ra 2 nhóm: nhóm tan trong nước là B và C; nhóm tan trong dầu là A, D, E và K.
Sinh Tố A là retinal palmitate khi vào đường tiêu hoá biến ngay thành retinol. Cùng gốc retinol là alpha-carotene, beta-carotene và cryptoxanthin. Beta-carotene hòa tan rất nhanh trong dầu.
Sinh tố A có nhiều trong gan của động vật, ớt, rau cải có màu vàng tươi như cà rốt, rất ít trong trái cây. Sinh tố này cần cho tế bào thị lực của mắt, phát triển xương, di truyền, ngừa bệnh, phát triển bào thai, máu huyết, da dẻ mịn màng, tốt cho hệ tuần hoàn...
Thiếu sinh tố A gây thị lực yếu, ban đêm không thấy rõ dưới ánh đèn, tròng mắt bị khô, sần da, miễn nhiểm trong cơ thể kém.
Sinh tố A được nhận diện từ năm 1906, lúc đó những nhà sinh học nghĩ rằng trong cơ thể còn nhiều sinh tố khác nữa, nên đặt sinh tố đầu tiên mới tìm được nầy là sinh tố A. Vào năm 1947 sinh tố A được tổng hợp thành công trong phòng thí nghiệm bởi 2 nhà hóa học người Dutch (Nước Dutch ở Âu Châu) là David Adriaan Van Dorp và Jozef Ferdinand Arens.
Sinh Tố B: Đúng như tiên đoán, miệt mài qua sáu năm nghiên cứu, hàng loạt sinh tố B được nhận diện trong cơ thể vào đầu năm 1912, chia làm 8 sinh tố B là B1 (thiamine), B2 (riboflavin), B3 (niacin), B5 (pantothenic acid), B6 (pyridoxine), B7 (biotin), B9 (folic acid) và B12 (cyanocobalamin). Những nhà khoa học còn nhận diện thêm 23 sinh tố B nữa chỉ đóng vai trò phụ nhất thời đó là: B4, B7, B8, B10, B11, B13, B14, B15, B16, B17, B18, B19, B20, B21, B22, Bh, Bm, Bp, Bt, Bv, Bw, Bx và Lipoic acid.
Sinh tố B hiện diện trong trái cây, rau cải, ngũ cốc, thịt… góp phần vào biến dưỡng cơ thể, bắp cơ rắn rỏi, da dẽ hồng hào, tăng miễn nhiễm, đều hòa hệ thần kinh, gia tăng hồng huyết cầu, ngăn ngừa ung thư tụy tạng, đều hòa máu huyết, tính tình vui vẻ…
Thiếu B1 ảnh hưởng trung khu thần kinh, tinh thần bất an, phù thủng, tay chân yếu ớt, nhịp tim bất thường, sụt cân, giọng yếu. Thiếu B2 vành môi có đường nứt rướm máu. Thiếu B3 da ngứa, khô, mất ngủ, cơ thể yếu, tiêu chảy. Thiếu B5 thân thể bất an, nổi mụn, tê tay, tê chân. Thiếu B6 gây thiếu máu, chán chường, áp huyết tăng, lưỡi phình to nổi lên những mụt trắng. Thiếu B7 làm trẻ em chậm phát triển, tâm thần bất an. Thiếu B9 bào thai kém phát triển gây dị hình. Thiếu B12 làm tê da, trí nhớ kém, mất máu pernicious anemia, giảm miễn nhiễm, tâm trí bất thường, tay chân chậm chạp, số lượng sinh tố B12 cần cho hồng huyết cầu mỗi ngày là 5 microgram, thống kê còn cho thấy những người trường chay hay bị thiếu sinh tố B12, hậu quả là bị bệnh về hồng huyết cầu Pernicious Amemia, vậy thì các bạn nào trường chay khuyên nên dùng thêm B12 mỗi ngày.
Sinh Tố C có danh gọi là L-ascorbic acid, mỗi ngày cơ thể cần số lượng nhiều hơn tất cả sinh tố khác. Cấu tạo của sinh tố C giống sườn của phân tử đường đơn glucose có một hydrogen hoạt động nên có tên trong sinh học là acid hữu cơ. Sinh tố này được nhận diện sau A và B cho những nhà khoa học gọi là C vào cuối năm 1912. Mãi đến năm 1934, những nhà hoa học mới tổng hợp thành công sinh tố C trong phòng thí nghiệm.
Sinh tố C giúp tạo nên hình dạng của tế bào… Sinh tố C hiện diện nhiều trong trái cây tươi nhất là chanh có vỏ xanh, rau cải, rất ít trong thịt và gan, rất nhiều trong sữa mẹ và sữa bò. Thiếu sinh tố C khiến cho cơ thể yếu ớt, da dẻ xần xù, nướu răng nứt và rướm máu.
Từ năm 1536 nhà thám hiểm người Pháp tên Jacques Cartier đã biết công hiệu của chanh và cam khi hành trình ra khơi thời gian lâu, phải dùng cam chanh mỗi ngày để giúp cho cơ thể khỏe mạnh, tránh chảy máu nướu răng.
Năm 1747, bác sĩ James Lind chuyên khoa giải phẩu làm việc trong quân đội nước Anh là người đầu tiên khẳng định dùng trái cây để tránh bệnh hoại huyết chảy nướu răng, giúp cơ thể khỏe mạnh.
Sinh Tố D tan trong dầu có 2 tên khoa học là tergocalciferol và cholecalciferol, những nhà khoa học bắt đầu nhận diện vào năm 1918. Sinh tố D tạo thành khi da hấp thụ ánh nắng tia cực tím B từ ánh sáng mặt trời. Vai trò của sinh tố D là điều hành calcium và phosphore trong máu, kích động sự hấp thu thực phẩm dinh dưỡng ở ruột non và giúp thận hấp thu lại calcium để cho xương tăng trưởng và điều hòa để sinh tồn.
Chúng ta cần ra nắng 2 lần mỗi tuần, mỗi lần 15 phút là đủ số lượng ánh nắng hấp thu vào da để tạo sinh tố D dùng cho cơ thể. Những nhân viên công xưởng không ra nắng phải dùng thực phẩm dồi dào sinh tố D như ngũ cốc, dầu cá, cá mòi, rong biển, sữa tươi…
Thiếu sinh tố D khiến cho hệ tiêu hóa hoạt động kém, đưa đến suy gan, suy thận, yếu xương liên đới đến đau nhức trong bắp cơ, trẻ em thì ốm còi kém phát triển, dễ bị bệnh rổng xương khiến xương dễ bị gảy.
Sinh Tố E có tên khoa học là tocopherol, được chia ra 4 loại sinh tố E là alpha tocopherol, beta tocopherol, gama tocopherol và delta tocopherol tan trong dầu, được nhận diện vào năm 1922. Sinh tố E hiện diện trong trái bơ, đậu phọng, dầu mè, các loại hạt, rau dền, dầu bắp, dầu ô liêu, dầu cá, măng tây, dầu mè, sữa…
Sinh tố E tốt cho hệ thống tim mạch. Sinh tố này kết hợp với selenium giúp ngừa được bệnh ung thư nhiếp hộ tuyến…
Sinh tố K: Vì sao không gọi là sinh tố F mà đặt tên sinh tố K. Nguyên do những nhà khoa học người Đức phát hiện sinh tố này tại quốc gia của họ. Cho nên nhóm nghiên cứu nầy rất vinh dự dùng tiếng Đức để đặt tên cho sinh tố này Koagulationsvitamin nên viết chữ đầu là sinh tố K có hai loại: K1 (phylloquinone) và K2 (menaquinone). Nguồn cung cấp sinh tố K là rau cải xanh, rau dền, bông cải, trái bơ, dầu thực vật, đậu nành… Riêng K2 hiện diện nhiều trong trứng, có rất ít trong thịt.
Vào năm 1939, hai khoa học gia người Đức là Henrik Dam và Edward Adelbert Doisy là hai người lần đầu tiên trên thế giới nhận diện và tổng hợp thành công sinh tố K. Mãi cho đến bốn năm sau đó, cả hai mới vinh dự chia nhau giải thưởng Nobel Y Học năm 1943.
Những người ghiền rượu khiến cho gan yếu nên rất dễ bị bệnh gan gây tình trạng thiếu sinh tố K. Sau khi giải phẩu bệnh sưng ruột thừa hay các bộ phận trong hệ tiêu hóa thì cơ thể cũng bị thiếu sinh tố K. Sinh tố K tồn tại trong cơ thể nhờ vào sinh hóa biến dưỡng của hệ tiêu hóa gồm có bao tử và ruột non ruột già.
Từ năm 1974, ngành sinh học nhận biết rõ rằng sinh tố K giúp cho cơ thể thành lập nên chất prothrombin giúp máu đong tại vết thương ngăn ngay thì tình trạng mất máu nguy hiểm cho cơ thể.
Người Nhật đưa ra nghiên cứu cho rằng sinh tố K2 trị được bệnh loãng xương và ngăn chận bệnh xơ gan. Nghiên cứu của người Đức thì quả quyết rằng sinh tố K2 chế ngự phần nào ung thư nhiếp hộ tuyến và giúp tế bào não ngăn được bệnh lẫn của người già. Sinh tố K tốt cho da. Có một công thức kem dưỡng da ghi nồng độ sinh tố K là 2%.
Bác sĩ Trần Văn Diên, Texas USA ngày 04/08/2015
Học sinh ban Công Thôn 1970-1973 NLS Cần Thơ