10/7/2016
RESVERATROL là cứu tinh của hai loại bịnh Tiểu Đường và ung thư Prostate ?
(Riêng tặng Specialist Dr Khuê, Dr Peter Bui và Dr Tuấn)
BÙI THẾ TRƯỜNG, PhD
Resveratrol có công thức là trans 3,5,4'-trihydroxystilbene, hay 3,4',5-Stilbenetriol; hay trans-Resveratrol; hay (E)-5-(p-Hydroxystyryl) resorcinol là một polyphenolic phytoalexin. (http://www.nutrasolutions.com/NS/200...ages/93975.jpg )
Về phương diện hóa học, đó là chất stilbenoid, do từ chất stilbene, là nột chất không màu, tan trong benzen, tan trong rượu: 50mg/mL, không tan trong nước hay tan nhưng rất ít:~0.03 mg/mL , nóng chảy ở nhiệt độ cao là 124oC, có khối lượng phân tử (molar mass): 228.25, thường dùng sản xuất thuốc nhuộm, và làm chất tẩy trắng mà tên thương mãi gọi là diphenylethylene, toluyene. Nhưng trong thiên nhiên, chất nầy có được là do cây tự sản sinh với sự xúc tác của một enzyme stilbene synthase.
Thường thì chất trên ở dưới hai dạng cis và trans. Trong tờ Journal Agri. Food. Chem , Lamuela Raventos 1995, dùng HLPC để phân giải cis và trans của resveratrol, thì thấy rằng khi chất resveratrol ở dạng trans form lại gặp nhiệt, hoặc tia tử ngoại cực tím ultraviolet, thì nó biến ra cis-form (Lamuela-Raventos, RM.,1995).. Thật vậy, Mozzon, (2007), đã đo hàm lượng cis resveratrol trung bình là 0.5 tới 1.9 mg/L trong rượu nho đỏ, còn trong rượu nho trắng chúng chỉ có tối đa 0.2 mg/L mà thôi
Resveratrol được tìm thấy do nhiều cây trong thiên nhiên, mà những tính chất dễ thấy nhất của nó là chống nấm (antifungal properties). Trong những cây có thể cho ta nhiều chất resveratrol có được như là: nho grapes,raspberries, mulberries và plums, peanuts, berries gồm có blueberries, bilberries và cranberries, và còn thấy nữa trong một vài loại thông như Scots pines và eastern white pine. Ông Jang và các cộng sự viên (1997) nghiên cứu về tính cách chống viêm rất hữu hiệu khi trích chất resveratrol từ cây http://en.wikipedia.org/wiki/PeruvianPeruvian legume Cassia quinquangulata . Đây là thứ thuốc được bào chế từ cây kể trên được thấy trong các sách pharmacology.
Resveratrol được nhìn thấy nhiều nhất ở các loại nho. Các loại nho trên resveratrol được thấy có nhiều nhất nơi vỏ và hột. Các loại nho tươi thường cho từ 50-100 ug resveratrol cho mỗi gram. Còn loại nho gọi là muscadine grapes, thì vỏ và hột của chúng d̃ế nghiền nát thì cho một hàm lượng resveratrol đâm đặc nhiều cả trăm lần. Tuy nhiên hàm lượng resveratrol lấy được nơi vỏ nho thay đổi tùy theo giống nho, tuỳ theo thổ nhưỡng nơi trồng và còn tùy theo tính khả năng đề khán nấm của chúng. Nghĩa là giống nho trên nếu ít bị nấm nghĩa là hàm lượng resveratrol cao hơn loại bị nấm. Khi nho được lên men, thì hàm lượng thời gian lên men luôn cả vỏ nho, cả hai đều cho hàm lượng tối đa resveratrol trong nước rượu nho.
http://khoahoc.net/photo/resveratrol-2.gif
Hàm lượng resveratrol có trong rượu nho và được thấy trong nước giải khát
Beverage Total resveratrol (mg/L)
Muscadine Wines 14.1 - 40
Red Wines (Global) 1.98 - 7.13
Red Wines (Spanish) 1.92 - 12.59
Red grape juice (Spanish) 1.14 - 8.69
Rose Wines (Spanish) 0.43 - 3.52
Pinot Noir 0.40 - 2.0
White Wines (Spanish) 0.05 - 1.80
Còn trong rượu nho Tuscan wine thì hàm lượng trans- resveratrol tập trung trong 40 loại rượu Tuscan wine có được từ 0.3 tới 2.1mg/L trong 32 loại nho đỏ, còn tuscan wines làm bằng nho trắng hàm lượng trung bình trong 8 thứ rượu nho trắng chỏ có 0.1mg/L.
Nếu xem bảng ghi hàm lượng resveratrol của mustadine grapes thì ta thấy rằng chính mustadine grape wines cho một hàm lượng lớn nhất hơn tất cả các loại nho làm rượu. Như cis resveratrol của mustadine grape có được vào khỏang 9.2 và 31.9 mg/L, còn trans resveratrol thì trong khoảng 4.9 và 5 13.4 mg/L (Mozzon,2007) (http://khoahoc.net/photo/resveratrol-3.gif )
Như trên tôi đã nói rằng trong peanut cũng có resveratrol, trong một ounce của raw peanuts là 146g có chứa tới 0.1-0.26 mg resveratrol, còn peanuts boiled nấu chín nặng 180 g có chứa tới 0.32-1.28 mg revesratrol; peanut butter một ounce nặng 258g có chứa tới 0.04- 0.13mg resveratrol. Tóm lại, trong một ounce của peanuts thì có hàm lượng resveratrol là 79.4ug/ounce bằng phân nửa của rượu ̣đỏ đo được 160 ug/ounce. Tuy nhiên, trong peanut có chứa hàm lượng fatty acid là saturated fatty acid của thực vật rất cao nên peanuts hay peanut butter đều là không tốt cho sức khoẻ nếu tiêu thụ nhiều. Thêm nữa, khi peanuts bị nhiễm thì nấm Aspergillus flavus xâm nhập tạo thành các bào tử làm nhiễm độc trong hột đậu, tạo thành aflatoxins. Chính chất nầy gây ung thư cho một vài súc vật và có thể gây ra ung thư gan cho con người ở vùng nhiệt đới, vì các nơi đó thường các ngũ cốc được tồn kho không kiễm soát độ ẫm đúng, gây nên nhiễm độc bởi nấm (David E.M, 2000)
Còn blueberries thì lại chứa hai lần hàm lượng resveratrol như bilberries, nhưng cả hai có hàm lượng resveratrol kém hơn nho là 10% Lyons MM, et al (2003). Lyons et al., (2003), Frémont L., (2000) , cho biết nếu ta dùng nhiệt nấu thì hàm lượng resveratrol lại giãm đi tới phân nửa. Còn nếu ta ăn resveratrol vào thì chúng sẽ mau biến đổi và cũng mau được bài tiết ra ngoài.
(http://khoahoc.net/photo/resveratrol-4.gif )
Tóm lại ta được biết các tính chất c̉ua resveratrol là chống nấm, chống viêm, chống nhiều thứ nguy hiễm khác mà ta sẽ thấy sau, nó có nhiều trong loại nho đỏ có tên là mustadine grape hơn các loại nho xanh khác, và khi làm rượu thì rượu mang tên là mustadine grape wines.
Nghiên cứu cơ chế của resveratrol.
1-Làm sao khi insulin bị lờn trở lại hoạt động như trước? Chìa khóa của thành công.
Trong quyển sách được xuất bản vào tháng Octobre, (2007) là Cell Metabolism do nhà xuất bản Cell press xuất bản, thì các nhà nghiên cứu nói rằng, với liều lượng nhỏ c̉ua một chất hoá học được thấy có nhiều trong vỏ của nho đỏ hay trong rượu nho đỏ có tên gọi là resveratrol, có khả năng cải thiện kích thích tố insulin của các chú chuột được dùng vào thí nghiệm. Chất đó cũng có tiềm lực mạnh trong việc điều trị để ngăn ngừa hai loại tiểu đường. Các nhà nghiên cứu thấy rằng trong chất resveratrol lại có một diếu tố enzyme gọi là SIRT1, chính enzyme nầy có công dụng là hồi phục DNA, điều chỉnh sự tiết ra insulin, và sự cải thiện sự nhạy cãm tốt hơn của insulin trong các chú chuột được dùng làm thí nghiệm. Nên resveratrol lại được coi như là một enzyme SIRT1 đầy năng động trong nhiệm vụ kể trên.
Ông nói thêm, diabetes mellitus, là hầu như do sự rối loạn của tuyến nội tiết, mà hiện tại có trên 170 triệu người đang mắc phải, và dự đoán cho đến năm 2030 thì con số nầy tăng lên tới 530 triệu người. Còn trong hai loại bịnh tiểu đường thì có hơn 90% của người mắc bịnh là do sự lờn insulin của các tế bào của cơ thể đến sự kích thích của các kích thích tố insulin. Insulin trong máu được gọi là tốt là vì đường hấp thụ vào dễ dàng khi phần lớn chúng tích tụ trong các bắp thịt của xương, các tế bào mỡ, và cũng bởi do sự ức chế do sự sản xuất đường trong gan tiết ra. Vấn đề hiện tại là làm sao giãm bớt đi sự ù lì hay lờn insulin là chià khoá đạt tới để điều trị hai loại bịnh tiểu đường. Trong các cuộc nghiên cứu gần đây thì giữa SIRT1 và chu trình biến đổi của đường glucose cùng sự tiết ra chất insulin thì cho biết rằng chính chất SIRT1 là chất tham dự trực tiếp vào sự mẫn cãm của insulin trở lại như trước đang đóng một vai trò lớn mà ít nhà nghiên cứu nào biết.
Bây giờ, các nhà nghiên cứu cho hay rằng hàm lượng chất SIRT1 nếu được gia tăng thêm thì chính nó làm giãm đi tính chất ù lì hay lờn của insulin (insulin resistance). Thêm nữa, gia tăng sự hoạt động của SIRT1 tức là cải thiện sự mẫn cảm hay độ nhạy của insulin. Insulin là một hormone có nhiệm vụ kiễm soát đường. Khi mà trong cơ thể con người khi insulin trở thành kém nhạy, thì insulin kém nhạy đó, được gọi là insulin resistance,hay gọi là insulin ù lì hay gọi là lờn insulin. Và khi cơ thể trở thành mập qúa tải, hay kém nhạy cãm của insulin đối với sự qúa tải đó sau một thời gian dài, thì insulin kém nhạy đó được gọi là insulin resistance, là đầu mối dẫn đến hai lọai tiểu đường. (When the body becomes “overloaded” or less sensitive to insulin, that’s called insulin resistance, a condition that can lead two types of diabetes). Còn đối với những người không bịnh, khoẻ mạnh, thì hormone insulin kiễm soát đường trong cơ thể được coi là rất hữu hiệu.
Đó là kết qủa được rút ra do các nhà khoa học thí nghiệm có được và xác định resveratrol- với liều lượng là 2.5mg/kg/day-thì sẽ làm gia tăng độ nhạy của các tế bào insulin. Hay nói một cách khác, nếu giãm đi hàm lượng resveratrol thì có nghĩa là cũng làm giãm luôn tính lờn của insulin trong các con thú được thí nghiệm khi cho chúng ăn những thức ăn có nhiều mỡ (fatty acid) trong đó.
Nhà khoa học Zaid nói, chính chất SIRT1 cải thiện sự nhạy cãm tốt hơn của insulin, đặc biệt trong những trường hợp khi chất insulin-ù lì hay lờn insuln. Thêm nữa, nhóm của Ông cũng nhận thất rằng chất resveratrol, với một hàm lượng nhỏ nếu so sánh với nhiều cuộc th́i nghiệm trước, thì cũng cải thiện sự mẫn cãm hay độ bén nhạy của insulin qua enzyme SIRT1.
Năm 2006, vào tháng August, nhiều nhà nghiên cứu tại Boston University cũng đã khám phá thấy rằng chính chất resveratrol làm tăng cường sự hoạt động hữu ích của insulin trong con chuột thí nghiệm. Lý do là việc lờn insulin đóng vai trò quan trọng trong hai bịnh tiểu đường. Còn nhóm nghiên cứu Ấn độ cho thêm resveratrol trong thức ăn của các chú chuột mắc ḅinh tiểu đường thì giúp cho thận chúng hoạt động tốt hơn và làm giãm đi hàm lượng oxyt gia tăng.
Năm 2007, vào tháng July, nhóm Biotech của Sirtris Pharmaceuticals cho biết chính chất resveratrol đã làm giãm lượng đường trong máu và đồng thời gia tăng của sự nhạy cãm của insulin gấp nhiêu lần đối với hai bịnh tiểu đường. Và nhóm trên xuất ra trên 60 triệu dollars trong việc bào chế loại thuốc trị hai bịnh tiểu đường. Nhóm nầy cùng với Dr David Sinclair, một nhà nghiên cứu tại Harward University, đã cć công tìm ra resveratrol từ năm 2003.
Thêm nữa, cuộc nghiên cứu do trường đại học Harward School of Public Health từ năm 2003 đến 2007, và công bố ngày 19-April-07, cho các phụ nữ tuổi từ 25, nếu tiêu thụ mỗi ngày từ 1-tới 2 ly rượu thì có được 58% ít bị hai loại bịnh tiểu đường hơn là những người không biết uống rượu. Các nhà nghiên cứu đưa ra ý kiến rằng tiêu thụ rượu sẽ giúp insulin nhạy cãm trở lại và hàm lượng đường trong máu điều độ. Cần lưu ý rằng, trong rượu đỏ có chấ́t resveratrol, nghĩa là dùng resveratrol là tạo insulin mẫn cãm như trước khi bị bịnh. Cũng vậy, trong tờ Annals of Internal Medecine nhận thấy rằng đối với những người dùng rượu đỏ, thì bịnh tim mạch lại giãm đi tới 55% thấp hơn cho những bịnh nhân bị bịnh tiểu đường đang dùng rượu đỏ điều độ
Thêm nữa, Ông Qiwei Zhai (2007) người Trung Hoa, trong viện Hàn Lâm khoa học , có đề nghị thêm rằng vì có vai trò của rượu trong việc uống rượn nho đỏ, là vấn đề là cần quan tâm đối với sức khỏe nhiều người, nên Ông ta đề nghị cách tốt nhất là tìm các loại thực phẫm thiên nhiên có nhiều chất resveratrol nhất mà dùng. Ông cho ví dụ như trong ngành y học của hai nước Trung hoa và Nhật bản thường dùng loại cây gọi là Polygonum cuspidatum. Nghĩa là dùng resveratrol không phải nhất thiết là phải dùng với rượu.
Nhóm cũng đề nghị cho những ai tiêu thụ rượu đỏ với mục đích là để cải thiện sức khỏe khi tiêu dùng chất resveratrol trong rượu thì nên nhớ là nghĩ tai hại của rượu trước và nếu uống thì trước nhất nên uống rượu rất ít. Từ các cuộc thí nghiệm trên các con chuột thì có thể trả lời rằng bà con có thể uống nhiều litres rượu đỏ mỗi ngày để có đủ hàm lượng resveratrol cần thiết cải thiện sức khoẻ. Nhưng Ông ta cũng nói thêm, là theo sự tìm thấy của Ông thì nếu bà con uống khoảng 3 litres red wine/ mỗi ngày th̀i trong cơ thể có được 15 mg chất trên, gọi là có được phản ứng sinh hoá hữu ích.
Tuy nhiên, sau một thời gian dài, lúc đó người uống có lẽ say xỉn rồi! Theo tôi, uống như thế thì sẽ trở thành người nghiện rượu, và tiền mua rượu cũng không kham nổi đoạn đường dài. Tiểu đường chưa hết, lại thêm bịnh nghiện, và gan cũng sẽ bị ung thư, thì mau thấy cái lẽ sinh bịnh và tử mà không một ai tránh khỏi. Vậy thì nên chọn một giải pháp thích hợp nhất đối với sức khỏe của chính mình.
2-Rượu nho đỏ mang nhiều sức khỏe đến cho con người.
Chính vì vỏ nho và hột nho chứa nhiều chất là antioxidant được gọi là flavonoids. Chính fkavonoids làm giãm LDL cholesterol xấu, gia tăng HDL cholesterol tốt, và làm giãm đi hiện tượng máu đông cụt (blood clotting). Ngoài ra, một chất antioxidant khác nữa, là resveratrol, trong vỏ và hột, làm ức chế mọi bướu tumors và một vài loại ung thư cancers. Và chúng cũng giúp trong việc ngăn ngừa các tế bào thần kinh bị nguy hại,và giúp điều trị hai bịnh là Alzheimer’s và Parkinson’s. Philippe M (2005) và Olson (2005) báo cáo trong Journal Biological Chemistry và American Journal Physio Heart rằng ch́inh resveratrol giúp cho các tế bào thần kinh kém hoạt động, hay bị tật như Alzheimer’s được phục hồi. Báo cáo từ Northeastern Ohio Universities College of Medecine và Ohio Stae University, do Olson et al và nhóm nghiên cứu của Ông (2005) rằng chính resveratrol tham dự trực tiếp vào việc ức chế tác dụng của cardiac fibroblasts và cũng ức chế sự bành trướng của cardiac fibrosis (tim bi xơ hóa)
Năm 2006, các báo cáo của các nhà nghiên cứu khoa học trước hết là các nhà khoa hoc̣ Pháp thì khi thêm resveratrol vào thức ăn cho các chú chuột dùng thấy rầng sức chịu đựng của chúng gia tăng thêm tới 100%, nếu so với các chú chuột không dùng resveratrol. Không những thế, resveratrol lại giúp chúng không trở thành lên cân, mập phì. Còn các nhà nghiên cứu người Mỹ tại Harvard University thì dùng resveratrol cho vào thức ăn của các chú chuột mập phì thì các chuột mập phì nầy kéo dài tuổi thọ lâu hơn tới 30% nếu so với các chuột không dùng resveratrol rong thức ăn của chúng.
Năm 2007, vào tháng June, nhóm khoa học nghiên cứu tại Mayo Clinic khi cho 30mg/day hàm lượng trong thức uống dùng cho chuột thì thấy gene CD38 chính là gene mà các nhà khoa học tin rằng chính hắn gia tăng sự béo phì, và cho chúng ăn thức ăn có nhiều chất béo trong 2 tuần. Nhóm nghiên cứu kết luận: chuột uống resveratrol thì lại giãm béo phì nếu so với chuột không dùng resveratrol thì độ béo phì gia tăng thêm.
Còn theo các nhà khoa học Canadian thì chất antioxidant của rượu nho đỏ giúp cho răng và lợi gọi là bịnh nha chu (periodontal) khỏi bịnh.
Thêm nữa, theo sự nghiên cứu của Dr Ceriollo và các công sự của Ông (2006) thì chất flavonoids trong nho đỏ hay các thứ trái cây khác, thì chính nó điều hòa các tế bào tăng trưởng, công dụng như chất antioxidants, làm giãm đi sự tổn thương của cơ thể và cũng ngăn ngừa được chứng máu đông (blood clots). Còn đối với hai loại bịnh tiểu đường, thì Dr Ceriollo và phụ tá của Ông cho những dữ kiện cụ thể là nếu tiêu dùng mỗi ngày từ 2 toi 5 ounce ly rượu đỏ trong bửa cơm thì 2 loại bịnh của người tiểu đường giãm đi các thành phần nguy hại trong các phần ăn mà họ đang nuốt vào bụng, làm giãm đi sự nguy hại của thành động mạch do tác động của cái gọi là sự gia tăng oxýt. Cần biết là sự oxidation của chất mỡ xấu LDL hay gọi là bad cholesterol khi chất nầy gây nên hiện tượng mỡ xấu bám vành động mạch ( Frémont L, et al 1999) Khi chất mỡ xấu lại gặp free radical thì radical sẽ tàn phá mỡ xấu nhanh chóng hơn gấp 50 sự tàn phá không có mỡ xấu và đâm xuyên qua mạch máu tạo ra chứng đứt mạch máu, vv.
3-Reveratrol cải thiện về thận tốt hơn
Trong quyển Pharmacology, November,2005, of the University Institute of Pharmaceutical Sciences at Panjab University in Chandigarh, India, .có cho biết thêm là resveratrol trong nho đ̉o hay trong rượu nho đỏ,là một hợp chất polyphenolic phytoalexin có tính chất chống oxýt hoá (antioxidant properties), lại làm cho thận hoạt động tốt hơn. Trong cuộc thí nghiệm kéo dài 6 tuần, trên 3 loại chuột: một không, một bị bịnh diabetes, và một bị bịnh tiểu đường (diabetic rats) với việc dùng resveratrol khoảng 5 và 10 mg. Sau 6 tuần lễ, xem kết qủa so sánh về thận của loại chuột bị bịnh mà thận bất bình thường thì nhận thấy: lượng creatinine giãm xuống và nước tiểu trong, chất proteinuria gia tăng hơn là do chính resveratrol tạo ra hiện tượng cơ học antioxidants (antioxidative mechanism) giúp cho thận loại chuột bị bịnh tiểu đường thận hoạt động tốt.
Tính chất của Resveratrol đã được xếp vào phytoalexin (“phyto” chỉ thực vật, “alexin” chỉ những thành phần bổ (complement), mà nghĩa complement là những thành phần khác nhau giúp vào việc đề kháng khi có sự xâm nhập của kháng nguyên khác vào cơ thể, hay do từ cơ thể tạo ra chất khác. Nó tham dự vào sự phân hũy, kêt tụ,ổn định của tế bào lạ. Complement cũng còn tham dự vào miễn dịch (immunity). Nhờ miễn dịch nên cơ thể mới chống chỏi hay đề kháng với bịnh tật (Martinez J and Moreno JJ., 2000). Vì thế resveratrol mang đến chúng ta nhiều lợi ích cho sức khoẻ, chẳng hạn như: chống ung thư, chống virus antiviral, neuroprotective, anti-aging, anti-inflammatory và life prolonging, mà tất cả các bịnh trên đều được phổ biến trên các báo chí, trên các Journal Science vv khắp nơi trên thế giới (Cao G, and Prior RL., 2000, Colin D, et al 2005 ).
Vai trò của thực phẫm có chứa resveratrol đang được bán khắp nơi. Như ta đã biết, resveratrol đươc̣ thấy trong rượn nho prapes vines (Vitis vinifera L) , nó hiện diện trong rễ, hạt, thân cây stalks, nhưng nhiều nhất là vỏ của trái nho và hạt của nó. Rượu nho đỏ chứa resveratrol nhiều, còn nho trắng thì ít lắm. Sở dĩ có sự khác nhau nhiều giữa hai loại nho về resveratrol là do cách chế biến mà ra. Rượu nho đỏ, trong chu kỳ chế biến, võ và hạt được nghiền và tất cả đều dùng để lên men. Còn nho trắng thì lên mem rượu do từ nước nho juice mà hạt và võ lại không dùng nghiền nát để làm juice vì khẩu vị (taste). Trong giai đoạn lên men, ngoài resveratrol, lại còn có polyphenols, kể cả quercetin, catechins, gallocatechins, procyanidins và cả prodelphidins là nơi chứa nhiều chất chát tannins, tất cả được trích ra từ võ nho trong chu trình gọi là điều chế gọi là ngâm sau khi làm nát và để lên men (maceration) thành rượu. Khi rảnh, tôi sẽ viết một chu trình làm rượu đỏ nổi tiếng của Úc, kỹ thuật làm rượu của Úc không dùng đường bỏ thêm vào, mà giá trị dinh dưởng và giá trị trị bịnh thuộc vào hạng tốt. Đó là khác biệt về kỹ thuật giữa Úc và Pháp.
Thêm nữa, resveratrol cũng được coi là rất hữu dụng trong việc chống lại các tế bào trung tâm không hoạt động đúng chức năng, và các tế bào chết và chống lại mọi sự thoái hoá như Huntington’s disease ( Arango et al 2005) và Alzheimer’s disease (Phillip M, 2005, Philippe Marambaud et al., 2005)
4-Cẩn trọng trong vịêc dùng rượu.
Hiệp Hội Tim Mạch Mỹ ( The American Heart Association) (AHA) khuyến cáo người dân có bịnh tiểu đường nên cẩn trọng nhìều về việc uống rượu. Nếu có uống, dùng trong bửa ăn, nên dùng vừa phải. Nếu thái quá, ngược lại mọi kết qủa mong đợi là rượu làm cho máu trong đường xuống thấp ở mức độ nguy hiễm. (Otherwise, alcohol can lower blood sugar to dangerous levels).
Hội AHA đề nghị rằng qúy Ông có dùng thì nên dùng hai lần trong ngày, còn qúy bà thì một lần trong ngày. Mỗi lần nên uống four ounce glass mà thôi. Nếu uống quá nhiều rượu đỏ, thì không hưởng những ích lợi gì từ rượu đỏ mang đến trong việc ićh lợi cho sức khỏe. Còn nếu cứ li bì sai men rượu, thì sẽ nhận nhiều vấn đề mới sẽ xãy ra rất tai hại liên quan đến sức khỏe.
Nếu không biết uống, thì đừng uống. If you don't drink, don't start. Nếu đừng khởi đầu, thì ṿan sự không có xãy ra. Bởi vì hãy nghĩ đến những trái cây và rau cải, cũng như nho đỏ, tất cả có chứa nhiều antioxidant, chứ đâu phải tìm từ rượu đỏ. Cứ ra các market mua về và ăn là được. Dù rằng rượu đỏ làm cho HDL tốt lên cao đấy, nhưng nếu chúng ta năng tặp thể dục một cách điều hoà, ăn uống vừa đủ no, thức ăn chọn lọc về phẫm dinh dưởng tốt tươi, thì kết qủa cũng như nhau. Nếu vừa uống, vừa ăn và vừa năng tập thì tuyệt. Thay vì nghĩ về rượu, nên quay về các phương pháp cổ điển, là kiễm soát sức nặng, thể dục đều đặng, và ăn uống bằng những thực phẫm tốt cho sức khoẻ, thì ít cần gặp mặt Bác sĩ làm gì, phải không qúy vị. Tại Úc, nơi tôi đã sống, tại Nhật nơi tôi đã tới, người dân giàu của nước đó thường dùng rau cải, trái cây tomato, ớt, cà, đậu vv trồng bằng phân hữu cơ organic compounds, và họ ăn cá tươi bắt ở biển cả. Sức khoẻ của họ cải thiện thấy rõ. Còn dân trung bình và nghèo tại Úc thi ăn rau cải và trái cây bón bằng phân hóa học (chemical compounds), vừa rẽ vừa nhiều. Còn tại Việt Nam, mọi rau cải hầu như bị nhiễm chất độc, và nhiễm ký sinh do việc tưới tiêu, gà vịt thì nhiễm H5 N1, heo, bò thì lỡ mồm, quay xanh vv. Cái chân lý mà mọi người phải nhận là nơi nào chũ nghĩa Marx tới và ngụ, nơi nào chũ nghĩa Cộng sản thành hình, thì các nước nơi đó đều trở thành địa ngục bất hạnh nhất ở dưới trần thế nầy.
Tại Đại học California, USA, Nhóm nhiên cứu của Ông Davis về các giống nho khác nhau để tìm hàm lượng flavonoids có trong đó. Theo nhóm thì rượu đỏ có nhiều nhất flavonoids hơn loại rượu trắng. Nhóm lại kết luận: rượu nào có nhiều vị ngọt hơn thì rượu đó có hàm lượng flavonoids thấp hơn. Còn đối với grape juice, thì các loại nước uống làm bằng nho có màu tím purple thì có khả năng ngăn ngừa máu đóng cụt (blood clotting). Dù, khác với rượu, nước nho cũng không làm cho LDL là cholesterol xấu thấp hơn đi. Còn việc dùng rượu thì rượu làm hư gan, tụy tạng và tế bào thần kinh. Và nghiên cứu cũng cho biết thêm rằng chính rượu gia tăng thêm nhiều cơ hội cho qúy bà dễ mắc bịnh ung thư vú (breast cancer). Còn qúy vị có những bịnh sau đây, thì không nên dùng rượu. Những bịnh đó là: high triglycerides, viêm tụy (pancreastitis), suy gan (liver disease), uncontrolled hypercontrolled, depression, và congestion heart failure.
Uống nhiều rượu thì làm gia tăng thêm hàm lượng của chất fats trong máu (triglycerides), thì dẫn đến gia tăng mạch huyết áp, tim bị hư và cũng gia tăng nhiều năng lượng tiêu thụ cao. Gia tăng qúa nhiều năng lượng tiêu thụ thì có nghĩa là dẫn đến sự béo phì và có lại có nhiều rủi ro cao dẫn đến sự phát triển bịnh tiểu đường. Uống qúa nhiều rượu dẫn đến voệc tai biến mạch máu não. Những biến chứng nghiêm trọng khác có thể xãy ra là có thể chết vì rượu, bịnh cơ tim, bịnh sai loạn nhịp tim và tim ngừng chết thình lình (cardiomyopathy, cardiac arrhythmia and sudden cardiac death)
Còn tiếp Phần 2